Nguyễn Xuân Hòa và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
89(01/2): 273 – 277<br />
<br />
THỰC TRẠNG AN TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TẠI CÁC KHOA CÓ<br />
SỬ DỤNG BỨC XẠ ION HÓA TẠI BỆNH VIỆN ĐKTƯ THÁI NGUYÊN<br />
VÀ BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN<br />
Nguyễn Xuân Hòa, Lê Thị Thanh Hoa<br />
Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Với mục tiêu nghiên cứu thực trạng công tác an toàn vệ sinh lao động tại các khoa có sử dụng bức<br />
xạ ion hóa, một nghiên cứu tiến cứu đã được tiến hành tại các khoa có sử dụng nguồn bức xạ ion<br />
hóa của bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên và bệnh viện Trường Đại học Y dược Thái<br />
Nguyên năm 2011. Kết quả cho thấy: Việc thực hiện các biện pháp ATVSLĐ còn nhiều hạn chế<br />
đặc biệt là thiếu thiết bị che chắn (25%), thiếu trang bị và theo dõi liều kế cá nhân ở cả 2 cơ sở<br />
nghiên cứu. Suất liều chiếu đo được không cao, ngoại trừ trong X quang can thiệp và y học hạt<br />
nhân. Số NVBX chủ yếu là nam giới (85,91%), thời gian tiếp xúc với bức xạ ion hóa chưa nhiều.<br />
Yếu tố bất lợi về vi khí hậu có nhưng không nhiều. Các tác giả khuyến cáo: Cần có những nghiên<br />
cứu đánh giá đầy đủ về thực trạng ATVSLĐ và sức khỏe NVBX, cải thiện điều kiện lao động, xây<br />
dựng phòng bệnh đảm bảo về ATBX tại cơ sở YHHN và tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá<br />
ATBX đối với các cơ sở y tế.<br />
Từ khóa: an toàn vệ sinh lao động.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Từ khi bức xạ ion hoá được phát hiện và đưa<br />
vào sử dụng cho đến nay, các nhà khoa học<br />
đã quan tâm rất nhiều vì lợi ích vô cùng lớn<br />
lao, song những hiểm nguy cũng rất nghiêm<br />
trọng [1],[7]. Các tia phóng xạ bao gồm hai<br />
loại: bức xạ hạt (α, β, neutron, proton) và bức<br />
xạ điện từ (tia X và tia γ) được dùng nhiều<br />
trong y học. Tại Thái Nguyên có khoảng 40<br />
cơ sở y tế sử dụng nguồn bức xạ ion hóa<br />
trong chẩn đoán và điều trị bệnh. Bên cạnh<br />
những lợi ích về y học cho địa phương thì<br />
những ảnh hưởng sinh học tới nhân viên y tế,<br />
bệnh nhân và cộng đồng luôn cũng là vấn đề<br />
cần được quan tâm [2],[5]. Do vậy, việc đánh<br />
giá về công tác an toàn vệ sinh lao động<br />
(ATVSLĐ) tại các cơ sở y tế có sử dụng bức<br />
xạ ion hóa là rất cần thiết. Ngoài một số báo<br />
cáo về công tác an toàn bức xạ (ATBX)[3],<br />
hiện nay tại Thái Nguyên chưa có nghiên cứu<br />
nào về thực trạng môi trường làm việc của<br />
nhân viên y tế làm việc trong môi trường có<br />
bức xạ ion hóa và ảnh hưởng của nó đến sức<br />
khỏe người trực tiếp làm việc với bức xạ (gọi<br />
tắt là nhân viên bức xạ - NVBX). Để xác định<br />
*<br />
<br />
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu nhằm cải<br />
thiện môi trường lao động và sức khỏe của<br />
NVBX tại các cơ sở y tế có sử dụng bức xạ<br />
ion hóa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại<br />
bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên<br />
(ĐKTƯTN) và bệnh viện Trường Đại học Y<br />
Dược Thái Nguyên (ĐHYDTN). Đây là hai<br />
trong số các cơ sở thực hành của Trường Đại<br />
học Y Dược Thái Nguyên. Mục đích của<br />
nghiên cứu là : Bước đầu đánh giá thực trạng<br />
công tác an toàn vệ sinh lao động tại các<br />
khoa có sử dụng bức xạ ion hóa tại bệnh viện<br />
ĐHTƯTN và bệnh viện ĐHYDTN.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng, thời gian và địa điểm<br />
nghiên cứu<br />
- Đối tượng nghiên cứu: Môi trường làm việc<br />
tại các khoa, phòng có sử dụng bức xạ ion hóa<br />
và NVBX tại bệnh viện ĐKTƯTN và bệnh<br />
viện ĐHYDTN.<br />
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12 năm<br />
2010 đến tháng 11 năm 2011.<br />
- Địa điểm nghiên cứu: Các khoa có sử dụng<br />
bức xạ ion hóa tại bệnh viện ĐKTƯTN và<br />
bệnh viện ĐHYDTN.<br />
273<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Xuân Hòa và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
- Phương pháp: nghiên cứu mô tả với thiết kế<br />
cắt ngang<br />
- Cỡ mẫu: toàn bộ các khoa có sử dụng bức<br />
xạ ion hóa tại 2 bệnh viện<br />
- Kỹ thuật thu thập thông tin:<br />
+ Điều tra thực trạng công tác ATVSLĐ: điều<br />
kiện vệ sinh, thiết kế phòng máy, chủng loại<br />
và chất lượng nguồn bức xạ ion hóa bằng<br />
quan sát, khảo sát hồ sơ.<br />
+ Khảo sát môi trường: đo suất liều bằng máy<br />
đo INSPECTOR và VICTOREEN của Trung<br />
tâm KĐ-TC-ĐL, sở Khoa học và Công nghệ<br />
Thái Nguyên. Đo vi khí hậu bằng các thiết bị<br />
đo nhiệt độ, ẩm kế và tốc độ gió của Bộ môn<br />
SKNN, trường Đại học Y Dược Thái Nguyên<br />
- Xử lý số liệu: theo phương pháp thống kê y<br />
học trên máy tính với phần mềm SPSS 10.0<br />
for Window.<br />
<br />
89(01/2): 273 – 277<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br />
Bảng 1. Phân bố nhân viên bức xạ theo giới<br />
BV<br />
Giới<br />
Nam<br />
Nữ<br />
Cộng<br />
<br />
ĐKTƯ<br />
TN<br />
<br />
ĐHYD<br />
TN<br />
<br />
48<br />
<br />
11<br />
3<br />
14<br />
20,29<br />
<br />
7<br />
<br />
n<br />
%<br />
<br />
55<br />
79,71<br />
<br />
Tổng<br />
n<br />
59<br />
10<br />
69<br />
<br />
%<br />
85,51<br />
14,49<br />
100,00<br />
<br />
Nhận xét: Nhân viên làm việc tại các khoa có<br />
sử dụng bức xạ ion hóa chủ yếu là nam giới<br />
(85,51%), nữ giới chỉ chiếm 14,49%. Do đây<br />
là nghề nghiệp có tiếp xúc với bức xạ ion hóa<br />
rất độc hại, cấm phụ nữ làm việc theo qui<br />
định của Nhà nước. Phần lớn số nhân viên nữ<br />
trong nghiên cứu này làm công việc hành<br />
chính trong các cơ sở bức xạ. Phần lớn số<br />
NVBX làm việc tại bệnh viện ĐKTƯTN<br />
(chiếm 79,71%) tại các khoa X quang (gồm<br />
cả Xquang Răng và Xquang can thiệp), xạ trị<br />
ung thư và y học hạt nhân (YHHN).<br />
<br />
Bảng 2. Phân bố nhân viên bức xạ theo số năm làm việc<br />
Bệnh viện<br />
Số năm<br />
20<br />
<br />
ĐKTƯTN<br />
n = 55<br />
%<br />
19<br />
34,55<br />
14<br />
25,45<br />
17<br />
30,91<br />
5<br />
9,09<br />
<br />
n= 14<br />
8<br />
2<br />
1<br />
3<br />
<br />
ĐHYDTN<br />
%<br />
57,14<br />
14,29<br />
7,14<br />
21,43<br />
<br />
Tổng<br />
n = 69<br />
27<br />
16<br />
18<br />
8<br />
<br />
%<br />
39,13<br />
23,19<br />
26,09<br />
11,59<br />
<br />
Nhận xét: Đa số NVBX trong nghiên cứu có tuổi nghề dưới 5 năm (chiếm 39,13%) và một số ít<br />
có tuổi nghề trên 20 năm (11,59%). Như vậy NVBX có thể phải làm việc trong môi trường độc<br />
hại trong thời gian tương đối dài.<br />
trị tán sỏi tiết niệu. Bệnh viện trường ĐHYD<br />
Bảng 3. Thực trạng về thiết bị (TB) phát tia xạ<br />
có 01 máy Xquang tăng sáng, 01 máy CT<br />
TB Máy X Máy Nguồn xạ Nguồn xạ<br />
sanner đang hoạt động tốt và 01 máy Xquang<br />
quang<br />
CT trị<br />
hở<br />
răng đang bị hỏng.<br />
BV<br />
ĐKTƯ<br />
TN<br />
ĐHYD<br />
TN<br />
<br />
8<br />
2<br />
<br />
31<br />
Co-60<br />
10<br />
<br />
2<br />
I-131, P-32<br />
0<br />
<br />
Nhận xét: Bệnh viện ĐKTƯTN là bệnh viện<br />
loại 1 tuyến trung ương nên số lượng máy và<br />
nguồn phát tia nhiều. Trong số 8 máy Xquang<br />
thì có 3 máy ở khoa Xquang và 2 máy đặt ở<br />
phòng khám, 01 máy Xquang răng toàn cảnh,<br />
02 máy Xquang can thiệp đặt tại khoa Gây<br />
mê hồi sức và 01 nguồn phát tia X trong điều<br />
<br />
Bảng 4. Kết quả đo liều cá nhân Hp(10) của<br />
NVBX năm 2011<br />
BV<br />
ĐKTƯTN<br />
ĐHYDTN<br />
Liều<br />
(cả năm)<br />
(6 tháng)<br />
(mSv)<br />
N<br />
%<br />
N<br />
%<br />
0-0,29<br />
23<br />
59,0<br />
6<br />
66,7<br />
0,3-0,49<br />
3<br />
7,7<br />
0<br />
0,0<br />
0,5-0,99<br />
0<br />
0,0<br />
0<br />
0,0<br />
1-4,49<br />
6<br />
15,4<br />
1<br />
11,1<br />
5-20<br />
7<br />
17,9<br />
2<br />
22,2<br />
> 20<br />
0<br />
0,0<br />
0<br />
0,0<br />
Tổng<br />
39<br />
100,0<br />
9<br />
100,0<br />
<br />
274<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Xuân Hòa và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
89(01/2): 273 – 277<br />
<br />
Nhận xét: Bệnh viện ĐKTƯTN thực hiện đúng nguyên tắc về ATBX (đánh giá kết quả liều kế cá<br />
nhân 3 tháng/lần) tuy nhiên mới chỉ có 39/55 NVBX được theo dõi liều kế cá nhân. Bệnh viện<br />
trường ĐHYDTN trong năm mới chỉ đánh giá được 01 lần với số NVBX được theo dõi liều kế cá<br />
nhân là 9/14 với 01 NVBX nhận liều hấp thụ cao là 11,07 mSv.<br />
Bảng 5. Kết quả đo vi khí hậu tại các cơ sở bức xạ<br />
STT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
<br />
Vị trí đo<br />
Phòng chứa nguồn DCPX<br />
Phòng máy Xquang<br />
Phòng máy CT<br />
Phòng điều khiển nguồn<br />
Phòng trực NVBX<br />
Hành lang<br />
Ngoài trời<br />
<br />
Kết quả trung bình của các trị số ( X ± 1SD)<br />
Nhiệt độ (0C)<br />
Độ ẩm (%)<br />
Gió (m/s)<br />
27,2 ± 1,8<br />
83 ± 4,0<br />
0,12 ± 0,1<br />
28,8 ± 0,5<br />
81 ± 4,8<br />
0,41 ± 0,2<br />
27,5 ± 1,2<br />
84,7 ± 3,8<br />
0,81 ± 0,5<br />
27,3 ± 1,9<br />
79,2 ± 4,2<br />
0,9 ± 0,5<br />
26,8 ± 1,6<br />
84,2 ± 2,9<br />
0,81 ± 0,4<br />
27,4 ± 2,1<br />
72 ± 4,6<br />
0,41 ± 0,3<br />
28,8 ± 0,7<br />
78,3 ± 4,2<br />
0,91 ± 0,4<br />
<br />
Nhận xét: Tại thời điểm khảo sát, hầu hết các mẫu đều không đạt TCCP về nhiệt độ (nóng), có<br />
3/7 mẫu đạt TCCP về độ ẩm, 5/7 mẫu đạt TCCP về tốc độ gió.<br />
Bảng 6. Kết quả đo suất liều và phông tự nhiên tại các phòng X quang<br />
Vị trí đo<br />
<br />
STT<br />
<br />
Sát kính chì phòng điều khiển<br />
Vị trí nhân viên điều khiển<br />
Sát cửa ra vào của nhân viên<br />
điều khiển<br />
4 Phòng điều khiển<br />
5 Sát cửa ra vào của BN<br />
6 Cách cửa ra vào của bệnh<br />
nhân 50cm.<br />
7 Hành lang, nơi bệnh nhân<br />
ngồi chờ<br />
8 Ngoài tường phòng máy<br />
9 Phòng giao ban<br />
10 Phông tự nhiên<br />
1<br />
2<br />
3<br />
<br />
Kết quả đo suất liều (µ<br />
µSv/h)<br />
Trung bình<br />
0,21 ± 0,02<br />
0,21 ± 0,08<br />
<br />
Thấp nhất<br />
0,19<br />
0,17<br />
<br />
Cao nhất<br />
0,24<br />
0,29<br />
<br />
TCVN 6561<br />
3,0<br />
3,0<br />
<br />
2,26 ± 0,24<br />
<br />
2,1<br />
<br />
2,5<br />
<br />
3,0<br />
<br />
0,23 ± 0,06<br />
0,45 ± 0,02<br />
<br />
0,2<br />
0,44<br />
<br />
0,29<br />
0,47<br />
<br />
3,0<br />
0,5<br />
<br />
0,25 ± 0,06<br />
<br />
0,18<br />
<br />
0,31<br />
<br />
0,5<br />
<br />
0,21 ± 0,01<br />
<br />
0,19<br />
<br />
0,23<br />
<br />
0,5<br />
<br />
0,2 ± 0,02<br />
0,18 ± 0,01<br />
0,17 ± 0,03<br />
<br />
0,18<br />
0,17<br />
0,12<br />
<br />
0,24<br />
0,19<br />
0,23<br />
<br />
0,5<br />
0,5<br />
<br />
Nhận xét: Cả 2 cơ sở nghiên cứu đều đảm bảo về an toàn bức xạ. Riêng kết quả đo suất liều tại<br />
phòng đặt máy X quang di động: Khoảng cách từ nguồn phát tia X đến vị trí đo là 1m là 20mSv,<br />
2m là 6 mSv, 3,5m là 5mSv, 5m là 1,5 mSv và 6m là 0,3 mSv.<br />
* Kết quả đo suất liều và phông tự nhiên tại khoa Y học hạt nhân<br />
Nhận xét: Bệnh nhân sau khi uống dược chất phóng xạ trở thành nguồn phát xạ, mặc dù đo ở<br />
ngày thứ tư sau khi uống xạ nhưng ở khoảng cách gần (0,1m) suất liều còn rất cao (160 µSv/h)<br />
gấp 320 TCCP. Nguồn P-32 mặc dù được bảo vệ 2 lớp nhưng đo khoảng cách gần (0,1m) suất<br />
liều vẫn cao gấp 12 lần TCCP (xem bảng 7).<br />
<br />
275<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Xuân Hòa và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
89(01/2): 273 – 277<br />
<br />
Bảng 7. Kết quả đo suất liều và phông tự nhiên tại khoa Y học hạt nhân<br />
Vị trí đo<br />
<br />
STT<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
Kết quả suất<br />
liều (µ<br />
µSv/h)<br />
<br />
Nguồn I-131 dùng cho chẩn đoán<br />
- Sát nguồn<br />
- Cách nguồn 1m<br />
Đo ngày thứ 4 sau điều trị 150mCi.<br />
- Cách cổ bệnh nhân 0,1m<br />
- Cách cổ bệnh nhân 0,5m<br />
Nguồn P-32 ngày thứ 4<br />
- Cách thùng gỗ chứa nguồn 0,1m<br />
- Cách hộp gỗ nhỏ chứa nguồn 0,1m<br />
- Sát nguồn P-32<br />
Phòng trực điều dưỡng<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
- Việc thực hiện các biện pháp ATVSLĐ của<br />
các cơ sở bức xạ y tế còn nhiều hạn chế đặc<br />
biệt là thiếu thiết bị che chắn (25%), thiếu liều<br />
kế cá nhân (50 %) ở cả 2 cơ sở nghiên cứu.<br />
- Suất liều chiếu đo được tại các khoa có sử<br />
dụng nguồn bức xạ ion hóa không cao, ngoại<br />
trừ trong X quang can thiệp và y học hạt<br />
nhân.<br />
- Số NVBX chủ yếu là nam giới (85,91%), đa<br />
phần là cán bộ trẻ với tuổi nghề dưới 5 năm là<br />
39,1% và dưới 10 năm là 62,3%.<br />
- Các yếu tố bất lợi về vi khí hậu có nhưng<br />
không nhiều<br />
- Việc theo dõi liều kế cá nhân cho NVBX<br />
còn thiếu và chưa được các cơ sở y tế chú<br />
trọng.<br />
<br />
TCCP 6561-1999<br />
(µ<br />
µSv/h)<br />
<br />
Giá trị đo/<br />
TCCP (lần)<br />
<br />
5,59<br />
0,32<br />
<br />
0,5<br />
0,5<br />
<br />
11,18<br />
0,64<br />
<br />
160<br />
38<br />
<br />
0,5<br />
0,5<br />
<br />
320<br />
76<br />
<br />
6<br />
390<br />
960<br />
0,15<br />
<br />
0,5<br />
0,5<br />
0,5<br />
0,5<br />
<br />
12<br />
780<br />
1920<br />
0,3<br />
<br />
KHUYẾN NGHỊ<br />
- Cần có những nghiên cứu hệ thống và toàn<br />
diện hơn nhằm đánh giá đầy đủ về thực trạng<br />
ATVSLĐ và sức khỏe NVBX, cải thiện điều<br />
kiện lao động tại các cơ sở y tế có sử dụng bức<br />
xạ ion hóa.<br />
- Xây dựng phòng đảm bảo về ATBX dành<br />
cho bệnh nhân sau khi uống dược chất phóng<br />
xạ liều cao tại cơ sở YHHN.<br />
- Tăng cường công tác kiểm tra ATBX đối<br />
với các cơ sở y tế.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Tạ Quang Bửu (2007) “Kết quả nghiên cứu<br />
giám sát an toàn bức xạ ion hóa tại các cơ sở y tế ở<br />
Hải Phòng 2001 và 2005”. Hội nghị YHLĐ và<br />
VSMT, tr16-21<br />
[2]. Viên Chinh Chiến và cộng sự (2001) “Kết quả<br />
điều tra 18 phòng Xquang tư nhân khu vực miền<br />
trung”, Tạp chí Y học lao động: tr 86-91.<br />
[3]. Tiêu chuẩn Việt Nam, Tiêu chuẩn ATBX ion<br />
hóa tại các cơ sở y tế, TCVN 6561-1999.<br />
<br />
276<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Xuân Hòa và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
89(01/2): 273 – 277<br />
<br />
SUMMARY<br />
THE REAL SITUATION OF INDUSTRIAL SAFETY AND HYGIENE AT<br />
DEPARTMENT UTILIZING IONIZING RADIATION AT THAI NGUYEN<br />
CENTRAL DEPARTMENT HOSPITAL AND THAI NGUYEN UNIVERSITY OF<br />
MEDICINE AND PHARMACY<br />
Nguyen Xuan Hoa*, Le Thi Thanh Hoa<br />
College of Medicine and Pharmacy - TNU<br />
<br />
With the aim of investigating the real situation of industrial safety and hygiene at department<br />
utilizing ionizing radiation, a research was carried out in 2011 at these departments at Thai<br />
Nguyen central department hospital and Thai Nguyen university of medicine and pharmacy. The<br />
results reveal that the application of industrial safety and hygiene still does not meet the<br />
requirement. Especially there is still lack of protecting equipments (25%), devices and personal<br />
dosimeter in both hospitals. The dose rate measurement is not high, except the intervened X-ray<br />
and nuclear medicine. The number of radiation workers is mainly men (85.91%), duration of<br />
exposure to ionizing radiation is insufficient. Some disadvantages of weather were acknowledged<br />
but not too serious. After their researching, the reporters warn that: there should be a more<br />
adequately assessed studies on the real situation of the industrial safety and hygiene and health of<br />
radiation workers, which improves the working conditions, increases the awareness of preventive<br />
measures and enhances the testing and assessing the radiation safety for the health care centers.<br />
Keywords: occupational health and safety.<br />
<br />
*<br />
<br />
277<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />