intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Di chuyển lao động chất lượng cao

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:37

129
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm tìm hiểu về vấn đề di chuyển lao động chất lượng cao từ khu vực nhà nước sang các khu vực khác ở Việt Nam hiện nay. Qua đó phân tích rõ thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đề ra hướng giải quyết cho vấn đề. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Di chuyển lao động chất lượng cao

  1.                                                                                                                MỤC LỤC   Lời mở đầu     PHẦN: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................01 2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................01 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................01 4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................01 5. Nguồn số liệu................................................................................................01 6. Kết cấu..........................................................................................................01   PHẦN: NỘI  DUNG  CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN   1.1. Một số khái niệm........................................................................................02 1.2.Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến chuyên đề nghiên cứu..........02 CHƯƠNG   II:   THỰC   TRẠNG,   NGUYÊN   NHÂN   DẪN   ĐẾN   SỰ   DI  CHUYỂN   LAO   ĐỘNG   CHẤT   LƯỢNG   CAO   TỪ   KHU     VỰC   NHÀ   NƯỚC SANG CÁC KHU VỰC KINH TẾ  KHÁC Ở VIỆT NAM 2.1. Giới thiệu khái quát....................................................................................03 2.2. Thực trạng về vấn đề nghiên cứu.............................................................04 2.3. Đi tìm nguyên nhân.....................................................................................11 2.4. Hậu quả......................................................................................................13 CHUƠNG   III:  TỒN   TẠI   NHỮNG   MẶT   TRÁI   Ở   CÁC   KHU   VỰC   NGOÀI QUỐC DOANH
  2.                                                                                                                3.1. Những mặt trái tồn tại trong các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh........14 3.2. Doanh nghiệp FDI không phản ánh đúng thu nhập....................................15 CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ  4.1. Phương hướng, mục tiêu, thách thức và giải pháp cho vấn đề  nghiên cứu   trong thời gian tới……………………………………..................16    4.1.1. Phương hướng..................................................................16    4.1.2. Mục tiêu…………………………………………………17    4.1.3. Thách thức………………………………………………18    4.1.4. Giải pháp…………………………….………………….19  4.2. Nhận xét và một số kiến nghị………………………………20   4.2.1. Nhận xét……………………………………………….....20  4.2.2. Một số kiến nghị…………………………………………..21     PHẦN:  KẾT LUẬN                         
  3.                                                                                                                                            Lời mở đầu         Sau 3 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng nể  trong việc nâng cao rõ rệt vị thế, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư nước   ngoài cả  về  gián tiếp và trực tiếp liên tục tăng cao, tạo ra nhiều công ăn việc  làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Một số đối tác quan trọng của Việt Nam  sau khi gia nhập WTO như  Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, khu vực  ASEAN.       Lượng vốn FDI thu hút tăng mạnh, tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển kinh tế  ­ xã hội. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, cũng không thể phủ nhận  những tồn tại và yếu kém nội tại của nền kinh tế.         Khu vực kinh tế tư nhân sẽ  có một tương lai lạc quan. Phần lớn khu vực   này tập trung trong những ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động,  khai thác lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam. Lợi thế này sẽ còn kéo dài hàng   thập kỷ nữa và tạo điều kiện để Việt Nam cạnh tranh với thế giới trong những   ngành sử dụng nhiều lao động.            Tất nhiên, gia nhập WTO sẽ  mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích. Các   chính sách kinh tế mới và chính sách thị trường lao động có tác động kích thích  tạo môi trường cho thị trường lao động phát triển.       Cũng từ những lợi ích nêu trên mà ở Việt Nam hiện nay, di chuyển lao động   đang ngày càng phổ biến, có thể  nói như một làn sóng mạnh nhất là ở  dòng di   chuyển lao động chất lượng cao từ khu vực nhà nước sang các khu vực kinh tế  ngoài quốc doanh khác.       Thị trường lao động Việt Nam thời hội nhập đang chứng kiến sự xuất hiện   những động thái mới chưa từng có suốt nhiều thập kỷ nay như: Xu hướng tăng  nhanh những lao động “bằng cấp đầy mình”, được đào tạo khá bài bản từ  các  nguồn khác nhau; sự chuyển dịch linh hoạt và năng động; kiểu “nhảy việc” liên  tục hoặc làm việc và nhận lương bổng từ “nhiều cửa” khác nhau của lao động   trẻ có tài và có chí tiến thủ…Đặc biệt là vấn đề “chảy máu chất xám” từ trong  nước ra nước ngoài và nhất là từ khu vực Nhà nước sang các khu vực khác.        Là một nước đang phát triển, Việt Nam phải chấp nhận sự chi phối của các  nền kinh tế  phát triển. Điều này chẳng qua chỉ  là một logic của toàn cầu hóa. 
  4.                                                                                                                Nhưng chắc chắn rằng tiến hành những thay đổi hôm nay sẽ  giúp Việt Nam  phát triển hơn trong tương lai.                                PHẦN: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn chuyên đề            Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các công ty nước ngoài   vào Việt Nam rất đông. Điều này không chỉ  tạo ra một sự  cạnh tranh khá gay  gắt trên thị trường kinh doanh mà còn tạo ra một sự dịch chuyển về lao động.             Hiện nay, “chảy máu chất xám” đang là vấn đề bức thiết trong các công   ty nhà nước. Làn sóng “xin thôi việc” của công nhân viên chức ngày càng phổ  biến, nhất là đối với những người có năng lực giỏi. Điều này không chỉ   ảnh  hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp trước mắt mà nó còn liên quan trực tiếp   đến sự phát triển lâu dài của đất nước. 2. Mục đích nghiên cứu            Tìm hiểu về vấn đề di chuyển lao động chất lượng cao từ khu vực nhà   nước sang các khu vực khác  ở  Việt Nam hiện nay. Qua đó phân tích rõ thực   trạng, tìm ra nguyên nhân và đề ra hướng giải quyết cho vấn đề. 3. Đối tượng và phạm vi ứng dụng             Lao động chát lượng cao trong xã hội hiện nay. Đặ  biệt là đối tượng   công nhân viên chức đã và đang làm việc trong các cơ quan Nhà nước. 4.       Phương pháp nghiên cứu          ­ Tổng hợp phân tích số liệu qua các phương tiện như: sách báo, internet,...          ­ Phân tích,đánh giá, đi tìm nguyên nhân, dự báo tình hình trước mắt và lâu   dài, đưa ra phương hướng giải quyết. 5.        Số liệu
  5.                                                                                                                           Bao gồm số liệu dùng làm cơ sở dẫn chứng trong bài viết và các bảng  biểu trong phần phụ lục. 6.        Kết cấu           Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN                    Chương 2:  THỰC   TRẠNG,   NGUYÊN   NHÂN   DẪN   ĐẾN   SỰ   DI    CHUYỂN LAO ĐỘNG CHẤT LƯỢNG CAO TỪ  KHU VỰC NHÀ NƯỚC  SANG CÁC KHU VỰC KINH TẾ KHÁC Ở VIỆT NAM           Chương 3: TỒN TẠI NHỮNG MẶT TRÁI Ở CÁC KHU VỰC NGOÀI  QUỐC DOANH            Chương 4:  GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ                         PHẦN : NỘI DUNG               CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1  Một số khái niệm                       Thị  trường lao động là nơi mà người có nhu cầu tìm việc làm và có  người có nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động  thông qua các hình thức xác định giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện  thoả  thuận khác (thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội…)   trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông  qua các dạng hợp đồng  hay thoả thuận khác.            Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi qua thời gian về tỷ trọng của  từng bộ  phận trong tổng số lao động theo một không gian, thời gian nào đó và  diễn ra theo một xu hướng nào đó (tăng lên, giảm đi…)           Chuyển dịch cơ cấu lao động là một khái niệm trong một không gian và   thời gian nhất định, làm thay đổi số lượng và chất lượng lao động.           Hoạt động của quy luật cung cầu lao động trên thị trường lao động thúc   đẩy di chuyển lao động, làm thay đổi cung lao động trên các loại thị  trường  khác nhau. Các dòng di chuyển lao động trên thị trường có tính quy luật, chịu sự  tác động của nhiều yếu tố như: giá công lao động, mức sống, chuyển đổi việc   làm, khả năng phát triển cá nhân…
  6.                                                                                                                1.2   Các vấn đề  mang tính lý luận có liên quan đến chuyên đề  nghiên  cứu           ­ Kinh tế xã hội: Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo   hướng hội nhập quốc tế cho nên sự xuất hiện của nhiều dòng dịch chuyển lao   động trên thị trường lao động là điều không tránh khỏi.             Hiện tượng lao động chất lượng cao dịch chuyển từ khu vực nhà nước   sang các khu vực khác không phải là một phân tích quản lý thông thường, mà là  một phân tích quản lý có tính chất kinh tế  xã hội. Nó có năng lực lây lan, và  nguy cơ lây lan mạnh mẽ của hiện tượng này trong đời sống.             Di chuyển lao động ở Việt Nam tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng  và phát triển kinh tế ; đồng thời nó cũng tác động theo nhiều hướng đến đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Vì vậy, vấn đề lựa chọn và xác định mục tiêu di  chuyển lao động phù hợp với từng thời kỳ là điều hết phải hết sức quan tâm.              ­ Pháp luật Nhà nước:  Thực hiện đường lối của Đảng và nhà nước từ  năm 1986 đến nay, các cơ  chế, chính sách kinh tế  về thị  trường lao động luôn  được chú trọng và quan tâm thiết thực từ  những khuyến khích, lợi thế   ở  khu  vực nhà  nước đến các vấn đề  hội nhập, mở  cứa đối với các khu vực kinh tế  khác.                   Dưới tác động của chủ  trương sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà   nước theo quyết định số 176/HĐBT(10/1989) với hơn 800.000 lao động rời khỏi  khu vực nhà nước hòa nhập vào dòng lao động di chuyển.                                                CHƯƠNG 2:  THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ  DI  CHUYỂN   LAO   ĐỘNG   CHẤT   LƯỢNG   CAO   TỪ  KHU   VỰC   NHÀ   NƯỚC   SANG   CÁC   KHU   VỰC  KINH TẾ KHÁC Ở VIỆT NAM
  7.                                                                                                                   i  ới thiệu khái quát   2.1. G         Dòng di chuyển lao động từ  khu vực nhà nước sang các khu vực kinh tế  khác diễn ra khá sôi động bắt đầu trong những năm 1990 – 1996. Trong đó dòng   di chuyển với quy mô lớn hơn là sang khu vực kinh tế tư nhân vafkhu vực kinh   tế có vốn đàu tư nước ngoài.          Làn sóng cán bộ nhà nước bỏ ra ngoài làm: Sự bất cập của môi trường lao   động .           Thị  trường lao động Việt Nam thời hội nhập đang chứng kiến sự  xuất   hiện những động thái mới chưa từng có suốt nhiều thập kỷ nay như: Xu hướng   tăng nhanh những lao động “bằng cấp đầy mình”, được đào tạo khá bài bản từ  các nguồn khác nhau; sự chuyển dịch linh hoạt và năng động; kiểu “nhảy việc”   liên tục hoặc làm việc và nhận lương đồng thời từ  nhiều “cửa” khác nhau của   lao động trẻ có tài và có chí tiến thủ... Đặc biệt, trong đó đang nổi lên xu hướng   “chảy máu chất xám” từ  trong nước ra nước ngoài và nhất là từ  khu vực Nhà   nước sang khu vực ngoài Nhà nước.           Làm gì để thu hút nguồn nhân lực khu vực Nhà nước?            Trong nền kinh tế tri thức, trọng dụng nhân tài, quản lý và sử dụng chất  xám là một khoa học, thậm chí một kế  sách. Một nước muốn phát triển cũng  cần có chiến lược, chính sách nguồn nhân lực khôn khéo của mình. Chất xám  chảy đi, nhưng cũng có thể chảy lại.          Mấy năm gần đây, có khá nhiều người đang làm việc tại các cơ quan Nhà   nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh bỏ  việc để  “làm ngoài”, mong đóng góp   được nhiều hơn và cũng là để  có mức thu nhập cao hơn. Một số người từ các  cơ quan, công ty, xí nghiệp quốc doanh xin thôi việc ngang chừng, chuyển sang  làm ở các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các công ty liên doanh   với nước ngoài, hoặc tự mở doanh nghiệp tư nhân…Tại sao vậy? 2.2.  Thực trạng về vấn đề nghiên cứu         Công chức nghỉ việc vì thiếu cơ chế trọng dụng nhân tài          Việt Nam không thiếu vốn và tài nguyên (bao gồm cả vật chất lẫn nguồn   nhân lực), không thiếu các cơ  hội để  phát triển nhưng hiện đang thiếu một cơ  chế đào tạo, tập hợp và trọng dụng nhân tài. Đây là lý do chính khiến hàng loạt   công chức nghỉ việc.
  8.                                                                                                                 Công chức Bộ Tài chính nghỉ việc nhiều nhất           Theo báo cáo mới nhất của Bộ Nội Vụ, từ năm 2003­2007, ở 23 cơ quan  trung ương và 47 địa phương, có hơn 16.000 công chức, viên chức xin thôi việc;  chiếm 0,8% số  lượng công chức, viên chức cả  nước. Cao nhất khối cơ  quan   trung  ương là Bộ  Tài chính với 1.012 người, TPHCM dẫn đầu các địa phương  với 6.500 người nghỉ việc.             Trong khi đó, mức tăng thêm của khu vực công trong 5 năm là hơn nửa   triệu người. Như vậy, nếu so số lượng công chức nghỉ việc với số tuyển dụng   thêm thì không phải là vấn đề. Song, những người nghỉ lại là những người làm  được việc.             Họ là những lao động có trình độ cao, các nhà khoa học, các chuyên gia   cao cấp, các nhà tổ chức và kinh doanh tài ba... Họ chính là những nhà thiết kế,  tổ chức và trực tiếp sử dụng tốt nhất các yếu tố về lao động, vốn, tài nguyên và  cơ hội, đóng vai trò to lớn cho sự phát triển của xã hội.             Chính vì thế, sự dịch chuyển của những người này sang khu vực ngoài   nhà nước thường sẽ  tạo ra sự  thiếu hụt quan trọng về  nhân lực tại chính cơ  quan đó nói riêng và nhà nước nói chung.              Lợi ích cá nhân phải được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng              Thực tế cho thấy, nhiều công chức ra đi vì vấn đề  kinh tế, họ muốn   sang một nơi làm việc có thu nhập tốt hơn và theo như nhiều người chia sẻ thì   "thu nhập đó đánh giá đúng công sức của họ". Bởi hệ  thống thang bậc lương  trong các cơ  quan nhà nước như  hiện nay không phản ánh được sự  khác biệt   trong đãi ngộ. Hơn nữa, tiêu chí để đánh giá người tài, trọng dụng họ trong các  cơ quan nhà nước hiện nay còn nhiều bất cập.               Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, Trưởng phòng nghiên cứu  kinh tế ­ Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, muốn giữ chân công   chức là những người tài trong các cơ quan nhà nước cần phải hội 4 yếu tố sau:              Thứ nhất,  phải tạo sự  di chuyển chất xám tự  do trong thị  trường lao  động theo "quy luật tối  ưu" của tự nhiên. Nhân tài chỉ  định hình, phát triển và   tìm đến những nơi nào thoả  mãn các điều kiện nuôi dưỡng tốt nhất cho nó,   trong đó có lương, điều kiện học tập, lao động, khả năng tiếp cận các thông tin  và công nghệ mới, sự tôn trọng về tinh thần... 
  9.                                                                                                                             Bởi vậy, các cơ quan nhà nước muốn giữ chân công chức, ngoài việc   tăng lương, cần có những đổi mới trong công tác quản lý và phát triển nguồn  nhân lực.               Thứ hai,  các thang bậc giá trị xã hội phải có sự thay đổi. Các chuyên gia   trong mọi lĩnh vực ngành nghề kinh tế ­ xã hội đều phải được tôn trọng và đối   xử  như  nhau trong dư  luận xã hội và trong thụ  hưởng lợi ích vật chất tương   xứng với tài năng và đóng góp có ích cho xã hội của họ.              Thứ ba, phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tài đầu đàn.  Nhân tài loại nào cũng có thứ bậc và chỉ người tài mới biết phát hiện, tôn trọng   và sử  dụng hiệu quả  người tài. Nếu chọn sai đầu đàn thì cả  đội ngũ sẽ  kém   hiệu lực. Cần tái lựa chọn liên tục, lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá   và lựa chọn chứ không phải bằng cấp, học vị, chức tước.             Thứ tư,  phải bảo đảm duy trì nguyên tắc mọi lao động trong xã hội đều   sống được bằng lao động chuyên môn của mình: Lợi ích kinh tế  cá nhân phải   được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng và siết chặt kỷ luật lao động.             Xuất hiện “làn sóng” xin thôi việc            Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng ở TP.Hồ Chí Minh giai đoạn từ tháng  7­2003 đến 31­12­2007 đã có 6.422 (tức mỗi năm có khoảng 1.500) cán bộ, công  chức, viên chức của các đơn vị hành chính và sự nghiệp Nhà nước thuộc TP chủ  động rời bỏ  nhiệm sở  để  chuyển sang làm việc  ở  khu vực ngoài Nhà nước.   Dẫn đầu là khối sự nghiệp giáo dục với hơn 3.000 người. Làn sóng di chuyển   lao động lan toả  rộng sang các cơ  quan khác, như  Sở  Bưu chính ­ Viễn thông  (năm 2007 đã có ba cán bộ  chủ  chốt và một số  chuyên viên xin nghỉ  việc), Sở  Kế  hoạch ­ Đầu tư, Sở  Giao thông công chính, Sở  Du lịch, các cơ  quan trực  thuộc Thành đoàn, UBND các quận, huyện, xã , phường, báo chí và nhà xuất  bản, trong đó có cả  Phó Giám đốc Sở  Kế  hoạch ­ Đầu tư, Phó Giám đốc Sở  Giao thông công chính, Phó Giám đốc Sở  Du lịch, Phó Chủ  tịch Quận 12, Phó   Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ...          Tại Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ trong vòng một năm đã có  hơn mười nhà khoa học"chuyển ra ngoài", trong đó có những người có trình độ,  bằng cấp cao. Trong giai đoạn tới, một số thạc sỹ thuộc Chương trình đào tạo   300 tiến sỹ  và thạc sỹ  của Thành phố  Hồ Chí Minh cũng sẽ  nghỉ  việc sau khi  hết thời hạn cam kết phục vụ… Tình trạng tương tự  cũng diễn ra ở  nhiều địa   phương khác trên cả  nước.  Đặc biệt, khối ngành Tài chính­ Ngân hàng được  cho là có nhiều bổng lộc nhất do đặc thù ngành( cán bộ NHNN có hệ số lương  
  10.                                                                                                                gần gấp ba lần hệ số thông thường), cũng đang "lao đao" bởi "làn sóng" cán bộ  công chức rời bỏ nhiệm sở, trong đó có cả cấp Vụ trưởng.          Tất nhiên, yếu tố  thu nhập là hết sức quan trọng, bởi vì bài toán cơ  bản  của cuộc đời con người là đi tìm điều kiện để  sống, điều kiện để  phát triển.  Nhưng với một chế   độ  tiền lương như  hiện nay thì chỉ  có thể  khẳng định  không một ai có thể sống chỉ bằng đồng lương.         Ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và nhiều nơi khác, nhiều bác sĩ giỏi   chuyên môn và kinh nghiệm lâu năm, kể cả  một số người đã có chức vụ  trong   bệnh viện, Sở  y tế, giảng viên đại học y dược cũng xin thôi việc để  đến làm  việc cho các bệnh viện tư  nhân như: Hoàn Mỹ, Cửu Long, Tâm Đức, Tây Đô,  An Sinh, Triều An… Cán bộ, công chức là người làm trong bộ máy công quyền,  bộ máy hành chính Nhà nước ở các Bộ, ngành, các trường học, các viện nghiên   cứu, công ty, xí nghiệp, cả  cán bộ, chuyên viên trong ngành Ngân hàng Nhà  nước bỏ  việc ngày càng nhiều. Có những cán bộ  cấp lãnh đạo ngành, công ty   xin nghỉ việc cũng bởi nhiều lý do như: Không lo nổi lương cho công nhân, bất   đồng chính kiến, buộc phải từ  chức vì những bê bối trong đơn vị  mình phụ  trách, việc làm nơi khác phù hợp hơn, thu nhập cao hơn...          Xu hướng bỏ việc từ khu vực nhà nước sang khu vực ngoài quốc doanh   đang gia tăng, trong đó nóng nhất là ngành y, giáo dục, lực lượng chuyên gia,  quản lý… Do thiếu hụt nguồn tuyển lao động nên các doanh nghiệp, đơn vị  đang tìm mọi cách cạnh tranh, chiêu dụ  lao động của nhau. Điều này đang gây  xáo trộn, bất ổn cho thị trường lao động.           Chính sách cần thiết trước hiện tượng xã hội này của thị trường lao động   là biết nhìn rõ và chấp nhận sự  biến động, có biện pháp hợp lý tạo điều kiện   cho sự di chuyển, để nó diễn ra một cách có trật tự hơn, có thể kiểm soát hơn,   tất nhiên không để  nằm ngoài sự  quản lý của Nhà nước. Tức là ngay với lao  động phổ thông, sự di chuyển là rất có ích cho nền kinh tế, thực ra đó là sự biến  đổi lớn về cuộc sống, thân phận con người. Đối với lao động có tri thức, sự di   chuyển   là   một   hiện  tượng  cũng  không  thể   tránh  khỏi,   không  thể   ngăn  cản   được. Xét ở khía cạnh tính hiệu quả của thị trường lao động, thậm chí cần biết  quan niệm đúng, điều tiết,  điều hành thực trạng "chảy máu chất xám", vì nó cũng là động lực của sự phát   triển, một hiện tượng xã hội rất có ích đối với nền kinh tế  đang trên đà phát   triển trong sự nghiệp đổi mới đất nước
  11.                                                                                                                Nguồn: Báo cáo của OECD (năm 2001).           Tổng cục thống kê mới công bố thu nhập bình quân hằng tháng của lao  động khu vực nhà nước (năm 2006) là 1829,9 ngàn đồng/tháng. Nhiều người  kêu thu nhập như thế là quá thấp.            Xem xét kỹ thì thấy hơn một nửa số lao động đó là trong lĩnh vực kinh   doanh như  ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, khai khoáng… Số  người này không  có thu nhập từ ngân sách mà từ hoạt động sản xuất kinh doanh, nên thực ra các  tổ  chức này phải tự  lo theo cơ chế thị trường và nếu có so sánh thì nên so với   khu vực tư nhân tương ứng mới có ý nghĩa. Nếu thu nhập của họ thấp hơn thu  nhập của lao động tương tự trong khu vực tư nhân (và thu nhập chính thức của  họ chắc là thấp hơn thu nhập của người tương tự  ở khu vực tư nhân), thì điều   đó có thể  có những ý nghĩa gì? Nó có thể  chứng tỏ  sự  yếu kém của khu vực  kinh tế quốc doanh và chỉ riêng vì lý do này (và nhiều lý do chính đáng khác) nên   cải tổ triệt để khu vực này theo hướng tư nhân hóa. Liệt họ vào bởi lý do vì họ  thuộc khu vực nhà nước, song có thể  gây ra lẫn lộn giữa hoạt động sản xuất   kinh doanh và hoạt động nhà nước.          Gần hai triệu người có thu nhập chủ yếu từ ngân sách: quản lý nhà nước,   an ninh quốc phòng (464,7 ngàn người; 1300,9 ngàn đồng), giáo dục đào tạo  (1115,1 ngàn người; 1543,8 ngàn đồng), y tế  (229,1 ngàn người; 1555,5 ngàn 
  12.                                                                                                                đồng), thể thao văn hóa (44,4 ngàn người; 1601,1 ngàn đồng), đảng, đoàn thể và  hiệp hội (109,8 ngàn người; 1252,6 ngàn đồng). Chính vì thế khi tính trung bình  và phân tích lĩnh vực nào thấp, lĩnh vực nào cao, hơn nhau bao nhiêu lần, sẽ mất   ý nghĩa khi gộp chung như  vậy. Có lẽ  nên tách bạch ra sẽ  đỡ  gây nhầm lẫn   hơn.             Nếu tách lĩnh vực kinh doanh ra thì thu nhập trung bình của người lao  động nhà nước là 1472,7 ngàn đồng một tháng (17,67 triệu đồng/năm). GDP   năm 2006  ước tính 973790 tỷ  đồng với dân số  84.155,8 ngàn người, nên GDP   đầu người là 11,57 triệu đồng. Như thế thu nhập bình quân của người lao động   nhà nước là 1,53 lần GDP đầu người. Nói cách khác tính theo GDP đầu người   thì tỷ lệ này chưa chắc đã thấp. Hãy so sánh thu nhập trung bình của người lao  động trong lĩnh vực giáo dục của Việt Nam (bằng 1,6 lần GDP đầu người) với  lương giáo viên tiểu học                              Tính bằng GDP đầu người thì thu   nhập trung bình của người lao động trong ngành giáo dục của chúng ta cao hơn   lương giáo viên tiểu học của hơn 20 nước trong số  33 nước được khảo sát.   Song lại là một so sánh khập khiễng, vì so thu nhập bình quân với lương bình   quân của giáo viên tiểu học, so số liệu năm 2006 với số liệu 2001. Đúng vậy,   nhưng có lẽ  vẫn có thể, vì số  giáo viên tiểu học chiếm số  đông, và theo Bộ  trưởng Bộ  Giáo dục và đào tạo, thì lương giáo viên tiểu học năm 2005 là 1,4   triệu đồng/tháng (1,4 GDP đầu người) cũng không phải loại thấp khi so với các  nước đó. Về  thu nhập của lao động trong ngành y tế  có lẽ  cũng có bức tranh  tương tự khi so sánh quốc tế. Do số người làm trong hai lĩnh vực này là hơn 1,5  triệu trong số gần 2 triệu lao động trong khu vực nhà nước, nên có lẽ có cơ sở  để  kết luận rằng thu nhập của lao động trong khu vực nhà nước ở  Việt Nam,  khi tính theo GDP đầu người, không phải là thấp.          Tất nhiên xét về con số tuyệt đối, thu nhập của người lao động của chúng   ta còn thấp và đi so sánh con số  tuyệt đối là so sánh rất khập khiễng. Chỉ  có   cách duy nhất để cải thiện con số tuyệt đối nếu có tăng trưởng kinh tế liên tục.  Không có tăng trưởng kinh tế, GDP đầu người không cao thì khó có thể đòi thu   nhập cao cho bất cứ ai. Có hai vấn đề nổi cộm khi xem xét thu nhập của công  chức nhà nước. Vậy thu nhập thực so với thu nhập chính thức (theo sổ sách) là   bao nhiêu? Và sự phân bổ rất không đều của thu nhập (thu nhập thực của một   số ít quan chức cao hơn mức trung bình rất nhiều, và tuyệt đại bộ  phận chỉ  có  lương và thu nhập thấp) là một khuyến khích rất mạnh để người ta chạy chức,  chạy quyền, làm băng hoại đạo đức và gây bất bình xã hội.                    Muốn cải cách lương một cách có cơ  sở, chí ít phải nghiêm túc nghiên   cứu hai vấn đề ấy. 
  13.                                                                                                                           Hỏi 100 công chức chắc phải có 99 người trả lời “chẳng ai sống bằng   lương cả”. Chúng ta thường nghe “đồng lương chết đói nhưng quan chức nào  cũng sống đường hoàng”. Lý giải làm sao cho việc tuy lương thấp nhưng số  người xin vào làm  ở  các cơ  quan nhà nước vẫn đông. Bổng lộc nhiều hơn   lương. Đấy là những thực tế, song đã có ai thử nghiên cứu, đo lường xem tỷ lệ  của mức thu nhập thực và thu nhập chính thống là bao nhiêu, phân bổ  theo lĩnh  vực, cấp bậc, và địa phương ra sao?            Nếu tính thu nhập thực như vậy thì có lẽ sẽ thấy thu nhập trung bình của   người lao động khu vực nhà nước ở ta có lẽ vào loại cao nhất thế giới, tính theo  GDP đầu người. Vấn đề  chính ở  đây là sự  phân bổ  rất không đồng đều, tuyệt  đại bộ phận công chức chủ  yếu dựa vào lương và phụ  cấp, một tỷ  lệ  nhỏ  lại  chiếm phần lớn, gây ra chênh lệch thu nhập rất lớn.             Khu vực quản lý Nhà nước là khu vực tương tác trực tiếp với các quyền,   cho nên tham nhũng dễ từng bước giữ vị trí quan trọng trong toàn bộ cơ cấu thu   nhập của công chức.            Trong đời sống hàng ngày, một số người đã biến tham nhũng trở  thành   một hoạt động bình thường, như  “văn hóa phong bì”. Do đó, nhiều người rời  khỏi công sở không phải chỉ  vì họ  bị  lép vế  về  mặt thu nhập, mà còn vì họ  là  kẻ yếu trong một cộng đồng sống, muốn bảo tồn giá trị sống của mình.            Tham nhũng là tiêu chuẩn định vị hay không còn lệ thuộc vào rất nhiều   vấn đê khác. Nơi nào tham nhũng trở thành văn hóa thì ở đấy sẽ có một bộ phận  bỏ đi vì không thích ứng hoặc không chịu thích ứng.            Người ta có thể khắc phục được hiện tượng ấy bằng nhiều cách, tạo ra   một số sinh hoạt khác, tạo ra một số nguồn thu khác, tạo ra một lối thoát khác  về vật chất, và sự cân bằng khác về mặt chính trị.             Chính đây là một khuyến khích rất mạnh để người ta cố “đầu tư” chạy   chức, chạy quyền, chạy biên chế. Nếu giảm được tham nhũng, giảm các khoản   thất thoát, rà soát lại các khoản hợp đạo lý nhưng không hợp lệ  và hợp pháp  hóa chúng, thì chắc chắn việc cải cách lương không gây thêm gánh nặng cho   ngân sách, mà lại lành mạnh hóa được hoạt động nhà nước, nâng cao lòng tin   của dân vào bộ  máy nhà nước, giảm bất công trong chính bộ  máy nhà nước,  giải toả được nhiều bức xúc xã hội.           Điều gì đáng nói đằng sau “làn sóng” công chức, viên chức nước ta bỏ  nhiệm sở đầu quân cho các công ty ngoài? 
  14.                                                                                                                          Xu hướng mới trên là điều mừng. Trước hết  ở chỗ, dường như đã nhạt   nhoà rồi thời bao cấp về việc làm. Điều đáng mừng hơn là nguồn nhân lực và   lao động xã hội đang và sẽ  ngày càng được sử  dụng đúng nơi, đúng lúc, đúng  năng lực, nguyện vọng, do đó hiệu quả  hơn. Vì lẽ  đó, xét đến cùng, thì dù lao  động  ở  đâu cũng là làm giàu cho bản thân, cho tập thể  và cho đất nước, góp   phần vào công cuộc đổi mới chung.           Tuy nhiên, điều đáng lo chính là ở chỗ: Nhân tài sẽ cống hiến cho xã hội   tốt nhất khi họ làm việc hết mình trong bộ máy công quyền, vì mục tiêu quốc  gia đại sự. Vì vậy, hiện tượng các lao động (nhất là các nhà Quản lý và nhà  Khoa học) có trình độ cao, chất lượng cao và tâm huyết với sự nghiệp “quốc kế  dân sinh” và lĩnh vực khoa học mà họ dự định cống hiến hết đời, bị cản trở bởi  những chi tiết thuộc về “cơm, áo, gạo, tiền” nhỏ nhặt hàng ngày. Thậm chí, bị  trù úm, vô hiệu hoá và buộc phải rời bỏ  công sở, “đứt gánh giữa đàng”, rẽ  ngang, trái với tâm nguyện riêng, đang ngày càng có xu hướng gia tăng...            Đó là dấu hiệu cảnh báo không thể coi nhẹ về sự bất cập của môi trường  lao động, cũng như  nguy cơ  “xuống cấp” của đội ngũ cán bộ, và do đó, là sự  suy giảm năng lực và hiệu quả  quản lý Nhà nước các cấp, với những hệ  quả  khôn lường trong tương lai không xa.            Đâu là nguyên nhân chính khiến công chức, viên chức muốn nghỉ việc?                   Thứ  nhất , do chế  độ  lương và các đãi ngộ  vật chất còn thấp và chưa   khuyến khích lao động có trình độ và hiệu quả cao. Mặc dù chế độ tiền lương   của nước ta đã được cải tiến, mức lương tối thiểu đã được nâng lên nhiều lần.   Song có thể nóí, cho đến nay, không một ai trong tổng số khoảng 6 triệu người   hưởng lương và thu nhập chính từ  ngân sách Nhà nước chỉ  sống bằng lương   chính nhận từ cơ quan hàng tháng. Hơn nữa, tính cào bằng trong chế độ lương   còn chưa rõ, chưa khuyến khích công, viên chức lao động nghiêm túc, có hiệu  quả, nâng cao trình độ  bản thân. Hiện mức lương của 1 vị  Tiến sĩ, Trưởng   Phòng nghiên cứu khoa học, với thâm niên 25 năm công tác trong cơ quan khoa  học Nhà nước trung bình vào khoảng 2,5 triệu đồng, tức cũng chỉ gấp đôi mức   lương tập sự  của 1 đồng nghiệp, bằng 1,5 lần lương của 1 “ôsin” dù mới tốt   nghiệp phổ  thông, thậm chí chỉ  bằng ½ mức lương khởi điểm của 1 sinh viên  tin học tại một công ty Tin học cỡ trung bình trong khu vực tư nhân ở Hà Nội...           Một chuyên gia thực sự trong khu vực Tài chính ­ ngân hàng Nhà nước có   thể được công ty tư nhân mời chào với mức “lương cứng” gấp từ 5­10 lần mức   lương trung bình mà Nhà nước trả cho họ trong cùng thời điểm so sánh. Rất có   lý khi một lãnh đạo Sở của TP.Hồ  Chí Minh cho rằng: “Về nguyên tắc, chúng 
  15.                                                                                                                tôi phải tôn trọng nguyện vọng cá nhân. Không thể  cố giữ  chân họ. Anh em  ở  lại mà không yên tâm làm việc thì cũng chẳng hiệu quả, thậm chí còn làm mất   cơ hội tốt hơn của anh em!”.          Thứ hai, do môi trường công tác tạo nhiều sức ép tiêu cực về chuyên môn  và tinh thần cho người lao động có tri thức và lòng tự  trọng. Môi trường làm   việc chưa tạo cơ hội thuận lợi cho người có năng lực thanh thản lao động cống  hiến và thăng tiến. Những áp lực tiêu cực càng đè nặng lên những người thực   sự có tài, có tâm và lòng tự trọng cao.          Sự giả hiệu khoa học hoặc nhân danh những cái tốt đẹp và lợi ích tập thể  để  chèn ép và trục lợi của một số đồng nghiệp trong công sở  cũng làm xấu đi  môi trường làm việc và buộc người tâm huyết phải chịu nhiều ẩn ức, thậm chí  phải ra đi... Thực tế cho thấy rõ, với những người tâm huyết, muốn cống hiến,   họ  chỉ  đòi hỏi được đối xử  công bằng, đánh giá đúng năng lực và bố  trí đúng   công việc. Nếu những điều này không được đáp ứng thì họ sẵn sàng nghỉ  việc  để tìm chỗ làm khác phù hợp với tâm nguyện và sở trường của mình.          Thứ ba, mấu chốt là công tác bố trí cán bộ còn nhiều bất cập. Thực tế cho   thấy, công tác cán bộ trong các cơ quan Nhà nước đã và đang có quá nhiều bất  cập như: Bố trí cán bộ không khách quan, dân chủ, không tuân thủ  qui định về  thâm niên, nghiệp vụ  chuyên môn, nhất là không biết và không có cơ  chế  bảo  đảm họ  có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ  hay có tâm huyết với công việc  mới hay không. Nhiều trường hợp có tính “phe cánh”, áp đặt quá rõ, khiến phát  sinh tình trạng không nể, không phục, mất đoàn kết, thậm chí tạo ra những   nghịch lý cay đắng, như  người không biết nhận xét và chỉ  đạo người biết,  người không tốt phê phán và o ép người tốt, người nói dối được trọng dụng   hơn người nói thật.  2.3.   Đi tìm nguyên nhân            Dưới tác động của giá cả  sức lao động ở  các khu vực FDI, khu vực tư  nhân cao hơn ở khu vực nhà nước.          Do tác động của phân mảng thị trường lao động kỹ năng.           Dưới tác động của binh đẳng hóa về  vị  thế  xã hội của người lao động  giữa các khu vực kinh tế (không phân biệt vị thế xã hội theo hình thức sở hữu   mà trong đó người lao động làm việc).            Nếu loại trừ  những nguyên nhân đời thường, bất khả  kháng, như  hoàn   cảnh riêng bắt buộc phải chuyển việc làm mà không thể  xin “chuyển dọc”  
  16.                                                                                                                trong khu vực nhà nước do sự  eo hẹp biên chế  và công việc đặc thù của cơ  quan, sự  hạn chế  về  sức khỏe, cũng như  về  năng lực chuyên môn cá nhân và   các lý do tương tự khác, thì sự gia tăng làn sóng các lao động có chuyên môn cao   và tâm huyết chia tay với các công sở nhà nước có thể được giải thích bởi một   hoặc cả 3 nguyên nhân chính sau đây:           Thứ nhất, chế độ lương và các đãi ngộ vật chất còn thấp, chưa khuyến   khích lao động có trình độ  và hiệu quả  cao .  Mặc dù chế  độ  tiền lương của  nước ta đã được cải tiến, mức lương tối thiểu đã được nhiều lần nâng lên,   song có thể nói, cho đến nay, không một ai trong tổng số khoảng 6 triệu người   hưởng lương và thu nhập chính từ ngân sách nhà nước của nước ta đủ  sống và  chỉ sống bằng lương chính nhận từ cơ quan hàng tháng. Hơn nữa, tính cào bằng  trong chế độ lương còn rất rõ nên chưa khuyến khích công chức, viên chức lao   động nghiêm túc, có hiệu quả, nâng cao trình độ  bản thân. Nêu một ví dụ  thực  tế, mức lương của một tiến sỹ, trưởng phòng nghiên cứu khoa học, với thâm  niên 25 năm công tác trong cơ quan khoa học nhà nước trung bình vào khoảng  2,5 triệu đồng, chỉ  gấp đôi mức lương tập sự  của đồng nghiệp, thậm chí chỉ  bằng ½ mức lương khởi điểm của 1 sinh viên tin học tại 1 công ty tin học cỡ  trung bình trong khu vực tư nhân ở Hà Nội…Một chuyên gia thực sự trong khu   vực tài chính ­ ngân hàng nhà nước có thể  được các công ty tư  nhân mời chào  với mức “lương cứng” gấp từ 5­10 lần mức lương trung bình mà Nhà nước trả  cho họ trong cùng thời điểm so sánh.            Với mức thu nhập không đủ sống, thì việc cải thiện điều kiện nhà ở của   đại đa số công chức, viên chức nhà nước bình thường lại càng xa vời. Hiện nay,   trên địa bàn thành phố  Cần Thơ  chỉ  có 6 chung cư  cho thuê với tổng cộng   khoảng 2.000 căn hộ, trong khi có gần 29.000 cán bộ, công chức chưa có nhà ở.  Nhiều người phải sống trong những căn phòng trọ thuê ọp ẹp, ẩm thấp, vì chỗ  ở tốt thì giá cao “vượt ngưỡng” thu nhập của họ. Rõ ràng, khi chuyển sang kinh   tế thị trường, sự hấp dẫn vật chất có tiếng nói riêng, khách quan, khác với thời   kỳ trước đây. Không phải không có lý, khi một lãnh đạo cấp sở của Thành phố  Hồ  Chí Minh cho rằng: Về nguyên tắc, chúng tôi phải tôn trọng nguyện vọng  cá nhân của anh em. Không thể  cố giữ  chân, dù anh em có  ở lại mà không yên  tâm làm việc thì cũng không có hiệu quả, thậm chí có thể  còn làm mất cơ  hội   tốt hơn của anh em.            Thứ hai, do môi trường công tác tạo nhiều sức ép tiêu cực về chuyên   môn và tinh thần cho người lao  động có tri thức và lòng tự  trọng cao.   Môi  trường làm việc  ở các cơ quan, đơn vị  nhà nước chưa tạo điều kiện thuận lợi  cho người có năng lực thanh thản lao động, cống hiến và thăng tiến. Tiền lương  và những quyền lợi, cũng như  các điều kiện vật chất là quan trọng, nhưng nó 
  17.                                                                                                                không phải là tất cả. Những áp lực tiêu cực càng đè nặng lên những người thực   sự có tài, có tâm và lòng tự trọng cao, đặc biệt với những người được coi là “kẻ  sỹ”. Họ thường là người dễ bị tổn thương tinh thần, vì thế luôn hướng tới một   môi trường mà  ở  đó có thể  cống hiến nhiều hơn cho lợi ích chung, chứ  không   hẳn do muốn thu lợi cá nhân nhiều hơn. Áp lực tiêu cực đó thường xuất phát từ  chính bản thân, cũng như sự lạm dụng những cơ chế, chế độ quản lý nhà nước  không còn phù hợp, không khuyến khích sự sáng tạo và thẳng thắn.            Áp lực này còn dồn ép từ phía những đồng nghiệp không đủ năng lực và   phẩm chất cần thiết cho chuyên môn, làm gia tăng tính đố kỵ, tìm cách cản trở  sự  tiến bộ  của những người khác. Trong khi đó, chúng ta lại thiếu hệ  giá trị  chuẩn chung phù hợp, thống nhất làm thước đo đúng đắn đánh giá những đúng,   sai, hay, dở  một cách minh bạch và khách quan, để  ai cũng phải “tâm phục,   khẩu phục”… Những hiện tượng giả hiệu khoa học hoặc nhân danh những cái   tốt đẹp và lợi ích tập thể để chèn ép và trục lợi của một số đồng nghiệp trong  công sở  cũng làm xấu đi môi trường làm việc và buộc người tâm huyết phải   chịu nhiều ấm ức, thậm chí phải ra đi…            Thực tế cho thấy, thường những người tâm huyết, muốn cống hiến, chỉ  đòi hỏi được đối xử  công bằng, đánh giá đúng năng lực và bố  trí đúng công   việc. Nếu những điều này không được đáp  ứng thì họ  sẵn sàng tìm chỗ  làm  khác phù hợp với tâm nguyện và sở trường của mình hơn.            Thứ ba, nguyên nhân mấu chốt là công tác bố trí cán bộ còn nhiều bất   cập. Việc hàng loạt công chức, viên chức, trong đó có cả  một số  cán bộ  lãnh  đạo các sở, tổ chức và đơn vị, cũng như  các chuyên gia hàng đầu xin nghỉ việc   thì không thể coi là chỉ do lương thấp…Thực tế cho thấy, công tác cán bộ trong  nhiều cơ  quan nhà nước đã và đang có những bất cập và vấn đề  cần khắc   phục, như  bố  trí cán bộ  thiếu khách quan, chưa dân chủ, không tuân thủ  nhất  quán và nghiêm túc quy định về thâm niên, nghiệp vụ  chuyên môn, chưa có cơ  chế để xác định, đánh giá xem cán bộ có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ  hay  có tâm huyết với công việc mới hay không. Nhiều trường hợp bố trí cán bộ theo   cách áp đặt, làm phát sinh tình trạng không nể, không phục, mất đoàn kết, đôi  khi dẫn đến những nghịch lý “cay đắng”, như người không biết lại nhận xét và  chỉ đạo người biết, người không tốt phê phán và o ép người tốt, người làm tốt   sợ người làm kém.           Những hiện tượng tiêu cực trong công tác bố trí, đề bạt cán bộ tất sẽ dẫn   đến những hành vi sai trái của người được bố  trí, đề  bạt. Nói cách khác, tham   nhũng trong công tác cán bộ là nguyên nhân cội rễ của mọi hành vi tham nhũng,  và là hành vi lớn nhất, tệ  hại và nguy hiểm nhất, tác hại lâu dài nhất và cần 
  18.                                                                                                                nhận diện đầy đủ, cũng như  diệt trừ  tận gốc nhất, để  nâng cao chất lượng,   năng lực và hiệu quả  bộ máy công quyền, cũng như  sự vững bền của thể chế  chính trị. Đó cũng là cách tốt nhất giữ  chân và sử  dụng hiệu quả  người tài ­   nguyên khí quốc gia.  2.4.   Hậu quả  Tình hình trên làm xuất hiện một số tình trạng không thể không quan tâm.           Thứ nhất, tình trạng chuyển dịch lao động theo các xu hướng khác nhau.   Không ít số  lao động thuộc khu vực nhà nước đã, đang và sẽ  có xu hướng  chuyển sang làm việc  ở  các khu vực ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài. Xu hướng này biểu hiện rất mạnh ở các nhóm người: nam giới, trẻ  khỏe, có trình độ  quản lý, chuyên môn nghiệp vụ  giỏi, kể  cả  một số  cán bộ,   công chức đã làm ở cơ quan nhà nước hàng chục năm, số có bằng cấp (đại học,   thạc sĩ, tiến sĩ), thậm chí cả cán bộ cấp phòng, cấp vụ. Cứ theo xu hướng này   thì số lao động nam giới, số trẻ khỏe, số người giỏi sẽ ít vào hoặc ra khỏi khu   vực nhà nước! Đã lâu lắm rồi (trừ những năm có chế độ tinh giản biên chế đặc   biệt), tổng số lao động khu vực nhà nước lại giảm như năm nay (năm ngoái có  4.038,8 nghìn người thì năm nay chỉ còn 4.007,8 nghìn người).             Thứ hai, thu nhập thấp là một trong những nguyên nhân quan trọng làm  xuất hiện hoặc làm cho tình trạng không ít người làm việc trong khu vực "sáng   vác ô đi tối vác về" tái diễn. Một số không ít người đã khai thác tối đa các kẽ  hở  của chính sách hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ  quan, danh nghĩa nhà nước để  nhũng nhiễu. Một số không ít khác tận dụng thời gian, phương tiện cơ quan nhà  nước để  làm việc riêng, như  chơi chứng khoán, thậm chí điều hành cửa hàng,  công ty  ở  bên ngoài, không còn quan tâm, lơ  là trách nhiệm của cán bộ, công   chức. CHƯƠNG 3: TỒN TẠI NHỮNG MẶT TRÁI Ở CÁC KHU VỰC  NGOÀI QUỐC DOANH 3.1.   Những mặt trái tồn tại trong các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
  19.                                                                                                                         Sự phân hoá về thu nhập của người lao động trong các khu vực và trong   các ngành tuỳ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, vào lợi thế độc quyền…  đang làm cho chênh lệch mức sống ngày càng cao, trong khi quyền lợi người lao  động không được bảo đảm.            Đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiền lương công nhân   trong các DN tư  nhân, công ty TNHH thường thấp hơn so với mức chi tiêu tối  thiểu để  đảm bảo cuộc sống, nhất là đối với người lao động ngoại tỉnh phải   thuê   nhà   ở.            Ở khu vực doanh nghiệp FDI, thu nhập của người lao động có thể  cao  hơn những khu vực khác nhưng ở đây có sự chênh lệch lớn giữa người lao động   gián tiếp và lao động trực tiếp.          Lao động làm quản lý, lao động gián tiếp thường có mức lương cao hơn   lao động trực tiếp nên khi tính thu nhập bình quân sẽ  cao lên song không phản   ánh đúng thu nhập của công nhân.          Thu nhập của cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính, nhìn chung   còn thấp cho dù có  ổn định và tăng dần theo mức lương tối thiểu chung. Mức  lương tối thiểu thấp, trong khi giá cả  tăng nhanh, nhiều khoản đóng góp cùng  với cơ  cấu tiêu dùng ngày càng cao khiến đời sống của người làm công ăn  lương rất khó khăn.          Doanh nghiệp FDI: Mỗi bậc lương chênh nhau…10.000đồng            Ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, tình trạng người sử  dụng lao  động không thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người lao động vẫn xảy ra   như: không ký kết hoặc ký kết không đúng loại hợp đồng lao động, không thực   hiện việc đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chưa thực hiện tốt thời giờ  nghỉ  ngơi, trả  lương làm thêm giờ, tình trạng nợ  lương, chậm trả  lương vẫn  diễn   ra…            Tại khu vực doanh nghiệp FDI, người lao  động trực tiếp làm việc với   cường độ  cao không được bảo đảm quyền lợi khi các chế  độ  bảo hiểm, tiền  lương, tiền thưởng, trả  lương làm thêm giờ  không được tính đầy đủ  và kịp  thời.       Hiện nay, trong các doanh nghiệp FDI, nhất là ngành dệt may, da giầy, chế  biến gỗ  đa số  doanh nghiệp chỉ  trả  lương cho người lao động mức lương cao 
  20.                                                                                                                hơn mức lương tối thiểu một ít, vì vậy thu nhập của người lao động phụ thuộc   nhiều vào tiền làm thêm giờ, phụ cấp, trợ cấp…       Vấn đề  xây dựng thang bảng lương cũng là điều cần nói đối với khu vực   DN này. Tại một số  doanh nghiệp có xây dựng thang bảng lương, nhưng lại   xây dựng 30 ­ 40 bậc và khoảng cách giữa 2 bậc liền kề chỉ chênh lệch từ 10 ­  15.000 đồng.       Do thu nhập thấp, hàng năm không được nâng lương cộng thêm một số  vi   phạm của người sử  dụng lao động như: không ký hợp đồng lao động, không  đóng BHXH, không trả lương làm thêm giờ, phụ cấp độc hại… đã dẫn tới tranh   chấp lao động, đình công ngày càng gia tăng.       Bên cạnh đó, doanh nghiệp thường tuyển công nhân theo thời vụ hoặc từng   công việc cụ thể để không phải giải quyết các chế độ cho người lao động làm   ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao   động, về hưu…  3.2.   Doanh nghiệp FDI không phản ánh đúng thu nhập                    Thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN)   trung  ương và doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài (FDI) thường cao hơn  DNNN địa phương và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.           Người lao động trong DNNN trung  ương hoặc các đơn vị đặc thù có lợi   thế  như xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng, điện lực thường có thu nhập cao hơn  các ngành nghề khác.           Chẳng hạn như thu nhập bình quân trong các đơn vị trực thuộc Bộ Công   Thương năm 2007 là 3,2 triệu đồng/tháng, trong khi các đơn vị thuộc ngành địa  phương là 1,05 triệu đồng/tháng.          Giữa các ngành cũng có thu nhập khác nhau. Những ngành như than, thép,   hoá chất, xăng dầu, thuốc lá, rượu bia nước giải khát, sữa, nhựa… có thu nhập   bình quân từ 4 ­ 5,4 triệu đồng/tháng. Trong khi các ngành dệt may, da giầy, cơ  khí cơ thu nhập bình quân 800 ­ 1,2 triệu đồng/tháng.          Tại các nông lâm trường, đơn vị  xây dựng cơ bản, vùng sâu, vùng xa do   thiếu việc nên mức thu nhập rất thấp. Một số công ty chè tại Tuyên Quang có  thu nhập bình quân chỉ  550.000 đồng/tháng/người. Thậm chí, tại Lạng Sơn có   một số  doanh nghiệp thuộc nông lâm nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng vẫn  thực hiện mức lương tối thiểu 290.000 đồng/tháng đối với người lao động.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2