intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Xuất khẩu sản phẩm thô ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay, thực trạng và giải pháp.

Chia sẻ: VU ANh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

567
lượt xem
152
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam là một nước đang phát triển. Khi tham gia xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài một điều có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong đó phần nhiều là những sản phẩm thô như Dầu thô, Cao su, Than đá,…. Hoặc những sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép, đồ gỗ,…. Và một số sản phẩm công nghệ cao khác như đồ điện tử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Xuất khẩu sản phẩm thô ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay, thực trạng và giải pháp.

  1. Thảo luận đề tài : Xuất khẩu sản phẩm thô ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Thực trạng và giải pháp. Nhóm 4. Đặt vấn đề: Việt Nam là một nước đang phát triển. Khi tham gia xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài một điều có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong đó phần nhi ều là những sản phẩm thô như Dầu thô, Cao su, Than đá,…. Ho ặc những s ản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép, đ ồ g ỗ,…. Và m ột s ố s ản ph ẩm công nghệ cao khác như đồ điện tử. Tuy nhiên chiếm tỷ trọng lớn hơn cả vẫn là những sản phẩm thô và những s ản phẩm có hàm lượng lao động cao. Tại sao lại có điều này? Bởi vì một nước đang phát triển như Việt Nam với trình độ sản xu ất còn th ấp, trình độ công nghệ chưa cao, khả năng tích lũy vốn còn nhiều hạn chế. Ở m ột nước đang phát triển nói chung đều gặp phải tình trạng này, để có thể phát tri ển được kinh tế không có gì khác hơn là những n ước đang phát triển ph ải d ựa vào l ợi thế so sánh của mình để đem sản phẩm đi xuất khẩu, thu được ngu ồn v ốn vào trong nước, thu hút được sự đầu tư của nước ngoài để phục vụ cho phát tri ển, đ ể mua thêm máy móc, phát triển khoa học kĩ thuật v..vv.. Vậy lợi thế so sánh ở VIệt Nam chính là: 1-các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. 2-đó là giá nhân công rẻ hơn, lực lượng lao động đông đảo. Cũng chính vì điều này mà Việt Nam trong những năm v ừa qua đã t ập trung xu ất khẩu các sản phẩm thô và các sản phẩm có hàm lượng lao động cao. Chúng ta sẽ điểm qua về Xuất khẩu thô ở Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay. Có thể nói chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô ( những sản phẩm nông nghi ệp và khai khoáng ) là một chiến lược thường gặp và được các n ước đang phát tri ển sử
  2. dụng. Điểm qua về xuất khẩu sản phẩm thô ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000-2007 Bảng về kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn từ 2000-2007 (đ ơn v ị: tri ệu đô là Mỹ)   2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 14482,7 15029,2 16706,1 20149,3 26485,0 32447,1 39826,2 48561,4 Hàng thô hoặc mới sơ chế 8078,8 8009,8 8289,5 9397,2 12554,1 16100,7 19226,8 21657,7 Lương thực, thực phẩm và 3779,5 4051,6 4117,6 4432,0 5277,6 6345,7 7509,2 9191,7 động vật sống Đồ uống và thuốc lá 18,8 45,5 75,2 159,8 174,0 150,0 143,5 155,1 NVL thô, không dùng để ăn, 384,0 412,6 516,5 631,3 830,9 1229,1 1845,3 2199,8 trừ nhiên liệu Nhiêu liệu, dầu mỡ nhờn và 3824,7 3468,5 3567,8 4151,1 6233,2 8358,0 9709,4 10061,0 vật liệu liên quan Dầu, mỡ, chất béo, sáp động, 71,8 31,6 12,5 23,0 38,4 17,9 19,4 50,1 thực vật Tỷ trọng( đơn vị %) Hàng Thô hoặc mới trong kim ngạch xuất sơ chế khẩu 2000 55.78 2001 53.29 2002 49.61 2003 46.63 2004 47.4 2005 49.62 2006 48.27 2007 44.59 Chú thích : Kim ngạch xuất khẩu là số tiền thu về từ hoạt động xuất khẩu trong m ột khoảng th ời gian nào đó, từng tháng, từng quý hoặc từng năm...
  3. Ta có thể thấy giá trị sản phẩm thô trong kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trước đó, trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dầu thô, th ủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đ ến năm 2005, các m ặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản ph ẩm g ỗ, đi ện t ử và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng lo ại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Tuy nhiên, dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng các mặt hàng xu ất kh ẩu thô c ủa Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi m ột sự n ỗ l ực l ớn h ơn n ữa để tăng nhanh các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Ta có thể thấy tỷ tr ọng c ủa sản phẩm thô trong giai đoạn này vẫn luôn ở mức trên 46% kim ngạch xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu một số sản phẩm thô trong giai đoạn từ năm 2000 đ ến 2007 ( đơn vị: triệu USD)   2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng giá 14482,7 15029,2 16706,1 20149,3 26485,0 32447,1 39826,2 48561 trị xuất khẩu Dầu thô       3700 5700 6900 8320 8487 Gạo 610 545 608 693 859 1330 1310 2400       Cao su 280 579 610 1300 1392 Cà phê 538 382 263 429 576 736 1100 1911 Tỷ trọng của của một số sản phẩm thô trong kim ngạch xu ất khẩu năm 2000- 2006 (đơn vị: %)
  4. Tỷ 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 trọng Dầu thô       18.36 21.52 21.27 20.89 17.48 Gạo 4.21 3.63 3.64 3.44 3.24 4.10 3.29 4.94 Đồ gỗ 2.03 2.16 2.58 2.81 4.30 4.68 4.82 3.09       Cao su 1.39 2.19 1.88 3.26 2.87 Cà phê 3.71 2.54 1.57 2.13 2.17 2.27 2.76 3.94 Chúng ta có thể thấy tỷ trọng của dầu thô chi ếm luôn chi ếm m ức cao trong kim ng ạch xu ất kh ẩu của Việt Nam trong giai đoạn này, luôn a. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu: Trong số những sản phẩm thô thuộc mảng này, đáng chú ý nh ất và quan tr ọng, đ ồng th ời cũng chiếm tỷ trọng cao nhất chính là Dầu thô và Than đá Tổng sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá giai đoạn 2000-2006 ( đơn vị : nghìn tấn)   2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Dầu thô 15423,5 16731,6 16876,0 17142,5 19500,6 17966,6 16442,0 15062,0 Than đá 3251,2 4291,6 6047,3 7261,9 11636,1 17987,8 29308,0 32072,0 Nguồn: Tổng cục thống kê. Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn định. Kh ối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu c ủa giai đo ạn 2001- 2007 rồi giảm dần. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần c ạn ki ệt trong khi công tác thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các n ước khác không đ ạt nhiều tiến triển. Dầu thô: Tổng lượng dầu thô xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 đạt kho ảng 90 tri ệu tấn, trị giá đạt 23,2 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch bình quân giai đo ạn 2001-2005 đạt trên 16%/năm. So với mục tiêu của Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010, lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu tăng 12,5%.
  5. Sang đến năm 2006 và 2007 nhằm thực hiện mục tiêu c ắt gi ảm xuất khẩu nguyên liệu, Bộ Kế hoạch đầu tư vừa trình Thủ tướng kế hoạch c ắt gi ảm xuất khẩu 1 số nguyên, nhiên liệu quan trọng, nhất là dầu thô và than đá nhằm bảo đảm nguyên, nhiên liệu trong nước và giảm nhập siêu giai đoạn 2006-2010. Ta th ấy sản lượng của dầu thô đã dần có sự điều chỉnh giảm bớt. Than đá: Tính chung giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu than đá có sự tăng truởng đột biến: lượng than đá xuất khẩu trong 5 năm đạt trên 44,2 triệu tấn, kim ngạch 1,389 tỷ USD, tốc độ tăng kim ngạch bình quân đạt gần 48%/năm. Sản lượng than đá vẫn tăng mạnh trong suốt giai đoạn này. b. Nhóm hàng nông nghiệp, thủy sản: Có thể thấy trong giai đoạn 2000-2006 nhóm hàng này cũng có t ốc đ ộ không ổn định và có tính thất thường. Tốc đổ tăng trưởng giá trị xuất khẩu quá các năm trong giai đoạn 2000-2007: 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Gạo -10.66 11.56 13.98 23.95 54.83 -1.50 83.21 Cao su 106.79 5.35 113.11 7.08 Cà phê -29.00 -31.15 63.12 34.27 27.78 49.46 73.73 Tỷ trọng của nhóm hàng này trong xuất khẩu cũng chưa phải là cao. Trong năm 2007, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có phần gi ảm hoặc tăng không nhiều. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu lại tăng rất cao so v ới năm 2006. Nguyên nhân là giá nông sản thế giới đang trên đà lên giá. Tóm lại, do đã có quá trình phát triển lâu dài, đã khai thác phần lớn ti ềm năng nên hoạt động xuất khẩu nông,thủy sản của Việt Nam những năm qua có xu hướng tăng trưởng chậm lại về khối lượng, nhưng vẫn gia tăng nhanh về giá trị do giá cả thế giới có xu hướng tăng lên.
  6. II- Tình hình xuất khẩu sản phẩm thô từ 2008 đến nay. Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu một số sản phẩm từ 2008 đến 9 tháng đầu năm 2010 ( đơn vị: nghìn USD) 2008 2009 9T/2010 Tổng giá trị xuất 62685130 Tỷ trọng 57096274 Tỷ trọng 51526274 Tỷ trọng khẩu trong tổng trong tổng trong tổng giá trị xuất giá trị xuất giá trị xuất khẩu khẩu khẩu Hàng rau quả 407037 0.65 438869 0.77 327994 0.64 Hạt điều 911019 1.45 846683 1.48 777895 1.51 Cà phê 2111187 3.37 1730602 3.03 1317232 2.56 Chè 146937 0.23 179494 0.31 142380 0.28 Hạt tiêu 311172 0.50 348149 0.61 331444 0.64 Gạo 2894441 4.62 2663877 4.67 2479018 4.81 Than đá 1388015 2.21 1316560 2.31 1162124 2.26 Dầu thô 10356846 16.52 6194595 10.85 3643675 7.07 Cao su 1603596 2.56 1226857 2.15 1419269 2.75 Quặng và khoáng 134958 0.24 93091 sản khác 0.18 Nguồn: Tổng cục thống kê. Có thể thấy tỷ trọng của giá trị xuất khẩu sản phẩm thô vẫn còn là rất cao trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là dầu thô luôn ở mức trên 10%. Sản lượng xuất khâủ một số sản phẩm (đơn vị:tấn) 2008 2009 9T/2010 Than Đá 19354727 24991924 14552580 Dầu thô 13752305 13372877 6027783 Quạng và khoáng sản khác 2151033 1355719 Nguồn: Tổng cục thống kê.
  7. Trong giai đoạn này sản lượng của xuất khẩu dầu thô nhìn chung là không biến động quá nhiều và đã có giảm so với giai đoạn trước ( gian đoạn 2000-2007) Với than đá tình hình cũng khá tương tự, tuy đ ến năm 2009 thì s ản l ượng xu ất khẩu có tăng nhưng so với những năm 2006 và 2007 thì đã gi ảm đi đáng k ể, theo đúng như dự kiến và chủ trương xuất khẩu của Nhà nước đó là hạn chế xuất khẩu hai mặt hàng than đá và dầu thô. Về sự giảm sản lượng xuất khẩu của dầu thô cũng là m ốc đánh dấu c ủa vi ệc nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động trong năm 2009 với công su ất ch ế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm. Đã góp phần tạo ra những s ản ph ẩm ch ế bi ến t ừ dầu thô đầu tiên ở VIệt Nam. Mặt hàng nông nghiệp: Nếu như nói đến 2008 chúng ta có thể mô tả ngắn gọn trong 10 chữ : Đó là một năm vừa được mùa, vừa được giá. Vậy nên chúng ta có th ể th ấy m ức tăng trưởng mạnh mẽ của từ sản lượng xuất khẩu đến kim ngạch xu ất khẩu c ủa các mặt hàng nông sản trong giai đoạn này. Năm 2009, năm tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, cuộc khủng hoảng về tín dụng này đã gây không ít khó khăn cho nên kinh t ế các n ước. Vi ệt Nam tuy không phải chịu ảnh hưởng quá nặng nề nhưng ảnh hưởng thì v ẫn là có. Kim ngạch xuất khẩu nước ta ở năm 2009 đã giảm khoảng 9% so với năm 2008. Nếu như đối chiếu thêm sản lượng xuất khẩu các mặt hàng nông nghi ệp này chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một điều. Đó là giá tr ị m ặt hàng nông s ản c ủa chúng ta trong thời kỳ này mất giá. Ở tất cả các mặt hàng này, đều có sản lượng xuất khẩu năm sau cao h ơn năm trước nhưng khi nhìn lên kim ngạch xuất khẩu thu vào ta lại nh ận th ấy doanh thu thu về lại giảm đi. Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông nghiệp giai đoạn 2008 đến 9 tháng đầu năm 2010 (đơn vị: tấn)
  8. 2008 2009 2010 Gạo 4741858 5958300 5305348 Cà phê 1059506 1183523 912646 Hạt điều 165334 177154 140199 Cao su 658342 731383 512930 Chè 104459 134115 97556 Hạt tiêu 90250 134261 97814 Nguồn: Tổng cục thống kê. Tình trạng được nhắc đến được ở giai đoạn năm 2009 đó là Xu ất khẩu nông s ản vẫn vượt kế hoạch dù mất giá. Đây là thời điểm mà giá c ả của các mặt hàng nông sản đã giảm khá mạnh và cho đến tận cuối năm 2009 vẫn chưa phục hồi. Sau khi lướt qua về một số thông tin, giá trị, hay t ỷ tr ọng xu ất kh ẩu c ủa các m ặt hàng. Ta sẽ phân tích về thực trạng xuất khẩu hiện nay. Có thể nhận thấy điểm chung trong cả hai gian đoạn, đó là: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô trong kim ngạch xuất khẩu qua các - năm là cao luôn ở trên 40%. Chiếm tỷ trọng cao nhất là những sản phẩm như dầu thô, than đá. - Ngoài ra có thể kể đến cao su, chè, cà phê. Trên thực tế có một thực trạng hết sức đáng buồn là chúng xuất khẩu sản phẩm thô với giá rẻ nhưng lại phải nhập lại sản phẩm đã qua tinh ch ế v ới giá đ ắt h ơn nhiều. Ví dụ như xuất khẩu than đá nhưng lại phải đi nhập khẩu điện, xuất khẩu mủ cao su nhưng rồi lại phải nhập khẩu xăm lốp, xuất khẩu dầu thô để rồi đi nhập lại xăng dầu,… Thực trạng xuất thô các mặt hàng tài nguyên khoáng sản và giải pháp. Ngay tại châu Á, hai nền kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc đang tìm m ọi cách “bảo toàn” tài nguyên khoáng sản trong n ước và tìm ki ếm, khai thác ngu ồn nguyên liệu thô ở nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong n ước.
  9. Trong khi đó, Việt Nam lại đi ngược xu hướng này, thi nhau khai thác tài nguyên đ ể bán ra nước ngoài. Một số vấn đề VIệt Nam đang gặp phải có thể kể đến như: - Tỷ trọng xuất khẩu các loại TNKS vẫn chiếm tỷ trọng lớn - Xuất khẩu sản phẩm thô nhưng lại phải nhập khẩu lại sản ph ẩm đã qua tinh chế với giá cả đắt hơn nhiều. - Việc xuất thô nhiều khi là bao che, giảm bớt khó khăn kinh tế cho các tập đoàn nhà nước. - Kế hoạch xuất nhập khẩu chưa đạt được tầm nhìn cần thiết. - Việc khai thác còn bừa bãi và sử dụng tài nguyên khoáng sản còn nhiều lãng phí. - Công nghệ chế biến còn yếu kém lạc hậu không đủ trình độ và công suất để phục vụ cho việc chế biến các sản phẩm thô trong nước. Dầu thô : Ở những năm trước năm 2006: Có thể thấy sản lượng xuất thô tăng m ạnh qua các năm. Và luôn chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xu ất kh ẩu : như d ầu thô luôn chiếm hơn 18% trong kim ngạch xuất khẩu ở các năm trong giai đoạn này. Từ năm 2006 trước những chủ trương giảm dần sản lượng xuất khẩu khoáng sản thì sản lượng này đã có dấu hiệu giảm dần. Một dấu hi ệu đáng tích c ực đó là t ỷ trọng xuất khẩu của dầu thô cũng có dấu hiệu giảm dần 17.41% năm 2007, 16.52 % năm 2008 và xuống còn 10.85% năm 2009, tính ở 9 tháng đầu năm thì chỉ chi ếm 7.07%. Có thể nói đây là dấu hiệu chuyển biến rất tích c ực trong vi ệc xu ất kh ẩu dầu thô ở nước ta. Xuất sản phẩm thô và nhập sản phẩm đã qua tinh chế. Điều này diễn ra rõ ràng nhất chính là với dầu thô. Chúng ta xuất khẩu dầu thô và phải nhập khẩu xăng dầu về với giá cao. Đây là một thực trạng hét sức đáng buồn.
  10. Giá trị xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu xăng dầu các loại trong giai đoạn 2008 đến 9 tháng đầu năm 2010( đơn vị: 1000USD) 2008 2009 9T/2010 Dầu Thô Xuất khẩu 10356846 6194595 3643675 Xăng Dầu các loại nhập khẩu 10966111 6255488 4770119 Nguồn: Tổng cục thống kê. Sản lượng dầu thô xuất khẩu và nhập khẩu xăng dầu các loại trong giai đoạn 2008 đến 9 tháng đầu 2010 ( đơn vị: tấn) 2008 2009 9T/2010 Dầu thô 13752305 13372877 6027783 Xăng dầu các loại 12963948 12705744 7684285 Nguồn: Tổng cục thống kê. Có thể số tiền chúng ta phải bỏ ra để nhập lại chính những sản phẩm có được từ việc tinh chế dầu thô là vô cùng cao và thường cao hơn c ả thu nhập có được từ việc xuất khẩu dầu thô. Ở Việt Nam bắt đầu từ năm 2009, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động với công suất chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm. Đã góp phần t ạo ra những sản phẩm chế biến từ dầu thô đầu tiên ở VIệt Nam. V ới kì v ọng s ẽ ph ục vụ được cho 30% nhu cầu trong nước. Đây có thể coi là một trong những thành tựu đầu tiên trong việc chế biến dầu thô. Cũng tiếp tục trên con đường cố gắng tinh chế những sản phẩm dầu thô có một số dự án xây dựng nhà máy lọc dầu đang được triển khai, có thể kể đến như Dự án Xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn ở Thanh Hóa, nhà máy l ọc d ầu Vũng Rô ở Phú Yên. Than Đá và các khoảng sản khác :
  11. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2009 số lượng quặng và khoáng sản xuất khẩu lên tới 2,15 triệu tấn, đạt kim ngạch gần 135 triệu USD (chưa kể dầu thô). Và các khoáng sản này chủ yếu vẫn được xuất khẩu sang th ị trường quen thuộc là Trung Quốc. Không ít những lần, chúng ta phải xuất khẩu chỉ để tháo gỡ khó khăn kinh tế cho những tập đoàn trong nước. Có thể kể đến như việc cuối năm 2009, Bộ Công thương Việt Nam đã tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho Tập đoàn TKV xu ất khẩu thêm thêm 400 nghìn tấn quặng sắt, 84 nghìn tấn tinh quặng magnetit, 18 nghìn t ấn mangan, 44 nghìn tấn kẽm... để tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghi ệp thuộc TKV do dư thừa biên chế và thiếu công nghệ chế bi ến sâu trong n ước. Sau khi đã thực hiện xuất khẩu 24 triệu tấn than trong năm 2009, năm nay TKV lại đ ề nghị xuất khẩu thêm 18 triệu tấn nữa. Riêng đối với quặng đồng, ngày 27/2, TKV lại đề nghị cho xuất khẩu 20.000 tấn tinh quặng đồng quy khô, với lý do là đ ể ổn định tình hình tài chính, duy trì sản xuất của tổ hợp khai thác Sin Quyền (Lào Cai)... (TKV: Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam.) khi vẫn tiếp tục xuất khẩu than với mức giá được nhiều chuyên gia Trong kinh tế cho là thấp, thì Tập đoàn TKV cùng một số tập đoàn, tổng công ty khác như Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép... lại xây dựng đề án nh ập kh ẩu than để t ừ năm 2012 trở đi, nhập khẩu than với số lượng ngày càng l ớn. Đây là m ột th ực t ế luẩn quẩn trong chiến lược tiết kiệm và sử dụng hợp lý TNKS của Việt Nam. Một số thông tin về xuất khẩu than : Năm ngoái Việt Nam xuất khẩu hơn 32,5 triệu tấn than, thu được 1,018 t ỉ USD. Nhưng nếu phải nhập khẩu than để cung cấp cho các nhà máy nhi ệt điện, thì tại thời điểm hiện nay, số tiền trên chỉ đủ để mua lại 7,5 triệu tấn. Trong bốn năm tính từ 2004, lượng than xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp năm lần và đạt mức 32,535 triệu tấn vào năm ngoái. Đó là chưa tính đ ến l ượng than b ị xuất khẩu lậu bình quân đến 10 triệu tấn/năm. Trước việc xuất khẩu than ồ ạt như vậy, từ năm 2006 Bộ Kế hoạch và Đ ầu tư đã cảnh báo nếu không có biện pháp hạn chế thì nguồn tài nguyên quan tr ọng này s ẽ
  12. sớm bị cạn kiệt, ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế. Năm ngoái, than xuất khẩu bình quân gần 32,2 USD/tấn (giá bán tại cảng Qu ảng Ninh). Cơn sốt giá dầu thô trên thị trường thế giới trong những tháng qua đã làm cho than xuất khẩu tăng giá đột biến và hiện đã lên đến 60 USD/tấn. Như vậy, chỉ riêng với số than đã xuất đi vào năm ngoái, Việt Nam đã mất gần m ột t ỉ USD do chênh lệch giá. Nhưng thiệt hại đó vẫn chưa bằng thiệt hại nếu phải nhập kh ẩu than v ới giá hi ện nay. Theo các chuyên gia của TKV, hiện tại, giá một tấn than nhập về tới Việt Nam khoảng 135 USD (bao gồm phí vận chuyển). Điều này đồng nghĩa với số tiền thu từ xuất khẩu than hiện nay ch ưa đ ủ đ ể mua lại một nửa lượng than tương ứng trong tương lai. Đó là ch ưa tính đ ến tr ường h ợp biến động giá cả. Với nhu cầu tiêu thụ điện đang tăng 17-20%/năm, thời điểm Vi ệt Nam phải nhập khẩu than không còn xa. Theo Bộ Công Thương, để đáp ứng nhu cầu điện cho n ền kinh tế trong giai đo ạn từ nay đến 2025, mỗi năm Việt Nam cần thêm 4.000 MW điện. Do tiềm năng th ủy điện đã khai thác gần hết, nguồn khí đốt thiên nhiên có thể khai thác không nhiều, nên vấn đề phát triển nguồn điện trong những năm tới sẽ phụ thuộc phần lớn vào các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than. Giải Pháp: Có thể thấy nhà nước cũng đã nhận ra những bất cập trong vi ệc xuất thô các sản phẩm có nguồn gốc là Tài Nguyên Khoáng Sản. Đã có nhiều bi ện pháp điều chỉnh: hướng tới giảm xuất khẩu TNKS, giảm dần sản lượng xuất khẩu, nâng cao trình độ kĩ thuật để chế biến . Nhóm mình cũng sẽ đưa ra một vài giải pháp với các sản phẩm có nguồn gốc là tài nguyên khoảng sản:
  13. 1_ trước tiên, phải ban hành và sửa đổi luật hướng tới việc khai thác và sử dụng TNKS tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền v ững c ủa đất nước. Một vài điều cần được ban bố trong luật như: Phải nghiêm trị việc khai thác tràn lan bừa bãi và khai thác tr ộm TNKS c ủa một số đối tượng. Hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện trạng, đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi trường. Thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên doanh, đầu tư, khai thác khoáng sản một cách tập trung, quy mô, hợp lý. 2_ Nâng cao công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản ph ẩm khoáng sản có ích và phục vụ cho nhu cầu chế biến TNKS trong nước Cần có những chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, thi ết bị khai thác ch ế biến, khuyến khích hỗ trợ đối với khai thác tận thu ở khu vực khó khăn, phức tạp. Nhập khẩu các dây chuyên chế biến, mời gọi các chuyên gia n ước ngoài, học hỏi các kinh nghiệm… 3_ thúc đẩy hợp tác, liên doanh, đầu tư khai thác khoáng sản. Để thực hiện được giải pháp thứ 2, điều không thế thiếu đó là vốn. Và chúng ta phải hết mức có thể để tận dụng nguồn vốn ngay ở trong nước, ở các tập đoàn, ở các công ty lớn. Ngoài ra để thúc đẩy nhanh quá trình, không thể không liên kết, h ợp tác với các công ty, các quốc gia bên ngoài nước ta. 4_xây dựng các trung tâm dự trữ khoáng sản Xây dựng các trung tâm này để có thể đảm bảo nguồn tài nguyên ph ục v ụ cho tương lai phát triển của đất nước.
  14. Đồng thời là tăng cường nhập khẩu các khoáng sản thô, các khoáng sản có nguy cơ cạn kiệt. Thực trạng và giải pháp cho việc xuất thô các mặt hàng nông sản. Các thực trạng đặt ra: 1- Việc xuất thô các loại nông sản, chạy theo số lượng, ít quan tâm chất lượng. 2- Việc nuôi trồng còn mang tính chộp giật, thiếu kế ho ạch cụ thể, thấy loại cây trồng gì có lợi trước mắt là nhân rộng ồ ạt. 3- Các sản phẩm nông sản được đem xuất khẩu đa phần đều là sản ph ẩm thô chưa qua chế biến. 4- Trình độ công nghệ chế biến nông sản ở nước ta là chưa cao. 5- Chưa tạo được thương hiệu cụ thể, đa phần đều dựa trên thương hiệu chung của nhà nước, hoặc núp dưới bóng nhãn hiệu nước ngoài để xuất khẩu. 6- Hạn chế tình trạng xuất khẩu qua biên giới, buôn bán không theo thông lê quốc tế. Thực trạng 1 và 2 cũng là nguyên nhân gây nên thực trạng thứ 5: Ở Việt Nam không khó khăn để nhận ra việc xuất khẩu hãy còn chỉ chạy theo số lượng mà ít quan tâm đến chất lượng. Một phần nguyên nhân gây nên tình trạng này chính là việc tr ồng tr ọt còn thiếu quy hoạch mạnh ai người ấy làm: các địa phương cũng đua nhau làm bất chấp qui luật cung cầu và dự báo thị trường tiêu thụ. Người nông dân thấy loại cây trồng gì có lợi trước mắt là nhân rộng ồ ạt mà ít quan tâm đến chất lượng, điển hình cho thực trạng này là cây cà phê, h ồ tiêu ở Tây Nguyên, cây mía, cây sắn, cây dứa, dưa hấu ở miền Trung…
  15. Thế mới có chuyện cười ra nước mắt, trên mảnh đất của mình chỉ trong một thời gian ngắn có người đã phá mía trồng sắn, r ồi phá s ắn tr ồng đi ều, phá điều trồng tiêu để cuối cùng nhận hậu quả… tiêu điều. Thêm vào đó, vì chạy theo lợi nhuận mùa vụ trước mắt, các doanh nghi ệp kinh doanh xuất khẩu tìm mọi cách thu mua cho đủ số lượng với giá r ẻ mà b ỏ qua nhiều khâu kiểm tra, đánh giá chất lượng đối với các loại hàng hoá nông sản. Chính vì cung cách sản xuất, kinh doanh như thế nên chất lượng nông sản xuất khẩu ít được quan tâm so với nông sản cùng loại của các n ước trong khu vực, điều này thể hiện rất rõ như gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn gạo Thái Lan 15 – 20USD/tấn, cà phê từ 100 – 150USD/ tấn, chè thấp hơn 400 – 500USD/tấn… Chính do chất lượng không cao nên buộc các doanh nghiệp phải núp bóng thương hiệu nước khác để xuất thô nông sản làm cho hàng hoá ngậm ngùi mang danh người khác. Thực trạng 3 và 4: Có thể nói trình độ chế biến ở nước ta là còn thấp cũng chính vì nguyên nhân này mà chúng ta chấp nhận phải xuất khẩu nhi ều sản phẩm ở d ạng thô, hàm lượng tinh chế thấp. Ví dụ: Đó là Cà Phê: Ông Đỗ Hà Nam, chủ tich hôi đông quan tri, tông giam đôc công ty cô ̉ phân ̣ ̣ ̀ ̉ ̣̉ ́ ́ ̀ xuât nhâp khâu Intimex Hochiminh, đơn vị có hai nhà may chế biên cà phê ở ́ ̣ ̉ ́ ́ Binh Dương, công suât 90.000 tân/năm binh luân răng: “Noi công nghệ chê ́ ̀ ́ ́ ̀ ̣ ̀ ́ biên cà phê cho sang, chứ thât ra cac thiêt bị sử dung trong nhà may ở Viêt ́ ̣ ́ ́ ̣ ́ ̣ Nam mới chỉ dừng lai ở công đoan sơ chế như boc tach vo, lam sach va ̀ ̣ ̣ ́ ́ ̉̀ ̣ ̣ ̉ ̉ ̉ ́ ̉ phân loai ra san phâm cà phê xô theo tiêu chuân xuât khâu”. Cũng là cao su: Khi mà sản lượng xuất khẩu luôn tăng nhưng đa phần vẫn ch ỉ là xu ất khẩu mủ cao su, cao su thiên nhiên ra nước ngoài. Có một thống kê là phần
  16. lớn lượng mủ cao su Việt Nam tiêu thụ dưới dạng sản phẩm thô, chiếm khoảng 80% lượng mủ cao su trong cả nước. Dây chuyền trang thiết bị còn lạc hậu, chất lượng chế biến cũng không đồng đều do có  nhiều thành phần tham gia sản xuất, chế biến nên chất lượng mủ cao su VN thường thiếu đồng bộ, không ổn định, m ột số chủng loại chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và khả năng cạnh tranh c ủa cao su VN trên th ị trường quốc tế. Thực trạng 6: Một thực tế là cứ đến thời kỳ mùa vụ thì lại có hàng lo ạt những lái buôn, thương lái hoặc chính những người nông dân chở nông sản của mình lên của khẩu Tân Thanh ở Lạng Sơn để bán sang Trung Quốc. Nhưng do giao dịch không theo đơn hàng từ trước, và hoàn toàn tự phát nên nảy sinh rất nhiều vấn đề. Ùn tắc đường, làm xe tải không thể chở nông sản, nông sản bảo quản - kém. Dẫn đến việc bị hỏng, bị giảm chất lượng. Khiến dân ta không bán được sản phẩm, hoặc bán được thì bị ép giá. Bên Trung Quốc khi mua sản phẩm thì họ quan tâm chất lượng khá - cao, khi đó những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn của họ sẽ không được mua, người nông dân lại phải mang sản phẩm về. Kể cả khi hàng sang đến Trung Quốc, nếu chất lượng không đạt yêu cầu thì vẫn bị trả về. Các thương nhân Trung Quốc liên kết, thống nhất mặt hàng, thống - nhất giá cả, chúng ta bị ép giá, bị thua lỗ. Các giải pháp: 1_Hướng việc trồng trọt có kế hoạch, tạo các vùng, quy ho ạch các khu trồng trọt cụ thể làm tiền đề. 2_ Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản ở nước ta.
  17. Thông qua việc quy hoạch các khu trồng trọt riêng đảm bảo sản l ượng - và chất lượng. Đẩy mạnh việc phát triển các thương hiệu ở những vùng trông nông - sản nổi tiếng. Vd như: bưởi Năm Roi, bưởi Phúc Trạch, Nhãn lồng Hưng Yên,… 3_Đẩy mạnh việc trồng trọt có kế hoạch, có chiến lược. Thúc đẩy việc kí kết trước các hợp đồng thu mua nông sản. Điều nãy cũng dựa rất lớn vào việc phân vùng trồng trọt. Và làm đi ều này để đảm bảo được đầu ra cho sản phẩm, để nhận được hộ trợ từ bên mua. 4_ Nâng cao công nghệ chế biến, bảo quản và cải thiện quá trình chuyên chở các sản phẩm nông sản. Tầm quan trọng của công nghệ chế biến là không phải bàn cãi. Các doanh nghiệp cần phải đầu tư, nâng cấp các trang thiết bị của mình. Ở Việt Nam, công nghê bảo quản là còn rất yếu, với khí hậu n ước ta, việc nông sản bị hỏng nhanh là điều rất thường xuyên. Chỉ khi chúng ta có thể bảo quản tốt được chất lượng nông sản thì mới có thể hướng đến việc xuất khẩu đạt được giá trị lớn hơn. Quá trình chuyên chở các sản phẩm cũng cần được lưu tâm vì chính trong quá trình này mà nông sản dễ bị hỏng, khiến giảm giá trị xuất khẩu. 5_ Nhà nước cần có những chính sách thích hợp để giúp phát tri ển vi ệc xuất khẩu sản phẩm nông sản. Hộ trợ cho các doanh nghiệp vay vốn để phát triển trình độ khoa h ọc - kĩ thuật. Thành lập và tài trợ các dự án nghiên cứu các giống m ới, các ph ương - pháp nuôi trồng mới hiệu quả hơn. Cần đội ngũ lãnh đạo có tài, để có thể đi ều ti ết vi ệc xuất khẩu các - mặt hàng nông sản một cách hợp lý và có lợi cho bà con nông dân.
  18. Việt Nam có nên lựa chọn xuất khẩu sản phẩm thô không? và nên xuất khẩu thô đến bao giờ? Trên thực tế là trong suốt giai đoạn từ năm 1991 cho đ ến nay Vi ệt Nam vẫn đang xuất thô. Vấn đề không phải là "có nên lựa chọn xuất thô không?" Mà là bắt buộc phải xuất thô và trên thực tế là nước ta đã và đang xuất thô suốt giai đoạn vừa qua. Như đã trình bày ở đầu bài, đó chính là phải dựa vào lợi thế so sánh để thu được nguồn ngoại tệ mua trang thiết bị, máy móc về cải thiện kĩ thuật. Nên trong những năm đầu sau khi chuyển sang nền Kinh t ế th ị tr ường đó là: Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực c ủa Vi ệt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, l ạc, hạt đi ều. Chủ yếu là các sản phẩm thô. Đến năm 2005, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và s ự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các m ặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng các mặt hàng xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ tr ọng cao, đòi hỏi một sự nỗ lực lớn hơn nữa để tăng nhanh các m ặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Rõ ràng, Việt Nam trong giai đoạn là một nước đang phát tri ển phải dựa vào xuất khẩu sản phẩm thô và sản phẩm mới qua sơ chế để xuất khẩu thu về được nguồn ngoại tệ phục vụ cho việc phát triển. Nên xuất khẩu thô đến bao giờ? Đây là một câu hỏi khó! Rõ ràng với nhiều mặt hàng nông sản, chúng ta không thể không xu ất thô và dù muốn hay không thì trong cơ cấu xuất khẩu vẫn phải có t ỷ tr ọng của xuất khẩu thô. Nhưng điều cần làm là không ngừng giảm tỷ trọng này
  19. xuống đến một mức nhất định. Và điều này phải được thực hi ện song song với việc xuất khẩu sản phẩm thô hiện nay. Chúng ta phải ko ngừng tìm các biện pháp để gia tăng hàm lượng chế biến trong sản phẩm, để dần dần thoát khỏi tình trạng xuất thô chi ếm tỷ tr ọng lớn như hiện nay. Việc xuất thô ở các mặt hàng nông sản là không thể tránh khỏi, nhưng bằng mọi cách chúng ta phải giảm tỉ trọng xuất thô xuống. Dần dần xu ất các sản phẩm nông sản đã qua chế biến… Hạn chế tối đa việc xuất khẩu TNKS, vì TNKS là có hạn và có ảnh hưởng lớn đến vấn đề phát triển lâu dài của nước ta. Chúng ta không th ể xuất khẩu năm nay, thời kỳ này để rồi tương lai lại phải đi nhập khẩu về được. Với việc xuất khẩu TNKS phải có nghiên cứu và lên kế ho ạch cụ thể, ở những trường hợp cần thiết thì phải ngưng xuất khẩu ngay lập tức. Danh sách thành viên nhóm 6: 1_Vũ Hoàng Anh TTQTB 2_Tuấn Anh KTDN.D 3_Hoàng Xuân Hoàn CKA 4_Hà Đức Chuẩn TCDN A 5_Đỗ Việt Hùng QTTM.A 6_Nguyễn Thanh Tùng TTQT.A 7_Nguyễn Thùy Anh KTDN.G 8_Nguyễn Thị Lan Phương. KTDN.G
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2