T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
<br />
TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN NHẬN THỨC CỦA BỆNH NHÂN<br />
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO<br />
Nguyễn Thị Kim Liên*; Hà Thị Bích Ngọc*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: đánh giá tình trạng rối loạn nhận thức của bệnh nhân (BN) tai biến mạch máu não<br />
(TBMMN). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 60 BN được chẩn đoán xác định là TBMMN<br />
để đánh giá tình trạng nhận thức bằng thang điểm MoCA (Montreal cognitive assessment). Kết<br />
quả: tỷ lệ rối loạn nhận thức của BN TBMMN khá cao (75%), chủ yếu là rối loạn nhận thức ở<br />
mức độ trung bình (40%) và nhẹ (23,3%). Lĩnh vực rối loạn nhận thức thường gặp là rối loạn trí<br />
nhớ (95%), rối loạn ngôn ngữ (78,3%), rối loạn khả năng thị giác (68,3%) và rối loạn độ tập<br />
trung (58,3%). Kết luận: rối loạn nhận thức thường gặp ở BN TBMMN, trong đó hay gặp nhất là<br />
rối loạn trí nhớ, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn thị giác và rối loạn độ tập trung.<br />
* Từ khóa: Tai biến mạch máu não; Rối loạn nhận thức; Thang điểm MoCA.<br />
<br />
Cognitive Impairment in Patients with Stroke by the Montreal<br />
Cognitive Assessment<br />
Summary<br />
Objectives: To assess the cognitive impairment in patients with stroke. Subjects and<br />
methods: A cross-sectional study was conducted on 60 patients with stroke to assess the<br />
cognitive impairment by Montreal cognitive assessment (MoCA). Results: The rate of cognitive<br />
impairment of patients with stroke was high (75%), including mainly average cognitive<br />
impairment (40%) and mild cognitive impairment (23.3%). The common cognitive impairments<br />
were: memory (95%), language disorder (78.3%), visuo-spatial skills (68.3%) and attention<br />
(58.3%). Conclusion: The cognitive impairment frequently occurs in patients with stroke. The<br />
most common cognitive impairments are memory, language disorder, visuo-spatial skills and attention.<br />
* Key words: Stroke; Cognitive impairment; MoCA.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tai biến mạch máu não để lại các di<br />
chứng gây phiền phức cho người bệnh<br />
như giảm khả năng vận động, rối loạn về<br />
ngôn ngữ giao tiếp, thị giác, cảm giác và<br />
ý thức. Trong đó, rối loạn nhận thức là<br />
<br />
một trong những biến chứng nặng nề dẫn<br />
đến sa sút trí tuệ ở người bệnh. Bệnh cảnh<br />
lâm sàng của rối loạn nhận thức thường<br />
gặp là: giảm trí nhớ gần do khả năng ghi<br />
nhận kém, rối loạn quá trình nhớ, giảm<br />
khả năng nhớ từ, giảm độ tập trung và<br />
<br />
* Trường Đại học Y Hà Nội<br />
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Kim Liên (lienrehab@yahoo.com)<br />
Ngày nhận bài: 24/10/2016; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 09/03/2017<br />
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2017<br />
<br />
114<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
chú ý, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn định<br />
hướng. BN không thể thực hiện được các<br />
sinh hoạt hàng ngày như tắm, mặc quần<br />
áo, ăn uống, vận động và vệ sinh cá<br />
nhân, làm cho BN không hòa nhập được<br />
với gia đình và xã hội. Vì vậy, việc phát<br />
hiện sớm BN bị rối loạn nhận thức để<br />
điều trị, tiên lượng và phục hồi chức năng<br />
nhận thức hết sức quan trọng.<br />
Ở Việt Nam, chưa có nhiều tác giả<br />
nghiên cứu về tình trạng rối loạn nhận<br />
thức này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành<br />
nghiên cứu đề tài nhằm: Đánh giá tình<br />
trạng rối loạn nhận thức của BN TBMMN<br />
bằng thang điểm đánh giá nhận thức<br />
MoCA.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng nghiên cứu.<br />
60 BN bị liệt nửa người do TBMMN,<br />
được khám, đánh giá và phục hồi chức<br />
năng tại Trung tâm Phục hồi Chức năng Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7 - 2014<br />
đến 4 - 2015.<br />
* Tiêu chuẩn lựa chọn: BN bị TBMMN<br />
lần đầu tiên, giao tiếp được, ≥ 18 - 80<br />
tuổi, bị bệnh từ 1 - 6 tháng, tự nguyện<br />
tham gia nghiên cứu.<br />
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN rối loạn chức<br />
năng nặng: hôn mê; rối loạn ngôn ngữ<br />
nặng hay rối loạn vận ngôn ảnh hưởng<br />
đến việc đánh giá nhận thức; có bệnh lý<br />
tâm thần, sa sút trí tuệ trước khi bị<br />
TBMMN.<br />
<br />
2. Phương pháp nghiên cứu.<br />
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô<br />
tả cắt ngang.<br />
* Các chỉ số trong nghiên cứu:<br />
- Tên, tuổi, giới, bên liệt, tay thuận, loại<br />
tổn thương.<br />
- Đánh giá tình trạng rối loạn nhận<br />
thức: thang điểm MoCA [3].<br />
Thang điểm đánh giá nhận thức MoCA<br />
gồm 8 phần: đánh giá thị giác, điền tên,<br />
đánh giá khả năng ghi nhớ, đánh giá độ<br />
tập trung, ngôn ngữ, khái quát hóa, trí<br />
nhớ ngắn hạn, định hướng.<br />
Thang điểm được thực hiện trong<br />
khoảng 10 phút. Tổng điểm tối đa của<br />
thang điểm là 30, trong đó:<br />
+ 0 - 7 điểm: rối loạn nhận thức mức<br />
độ nặng.<br />
+ 8 - 20 điểm: rối loạn nhận thức mức<br />
độ trung bình.<br />
+ 21 - 25 điểm: rối loạn nhận thức mức<br />
độ nhẹ.<br />
+ ≥ 26 điểm: bình thường.<br />
* Đạo đức của nghiên cứu: nghiên cứu<br />
tiến hành tại Bệnh viện Bạch Mai với sự<br />
đồng ý của lãnh đạo trung tâm, Bệnh<br />
viện. Nghiên cứu dựa trên 3 nguyên tắc<br />
cơ bản của đạo đức là tôn trọng, không<br />
gây hại và tạo ra sự công bằng cho BN.<br />
BN được giải thích rõ mục đích, nắm<br />
được trách nhiệm và quyền lợi, tự nguyện<br />
tham gia nghiên cứu.<br />
* Xử lý số liệu: theo phương pháp<br />
thống kê mô tả bằng phần mềm SPSS<br />
16.0.<br />
115<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br />
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu.<br />
* Độ tuổi và giới tính:<br />
Bảng 1: Phân bố BN theo tuổi và giới.<br />
Giới<br />
Độ tuổi<br />
<br />
Nam<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
Nữ<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
≤ 44<br />
<br />
2<br />
<br />
5,2<br />
<br />
3<br />
<br />
14,3<br />
<br />
5<br />
<br />
8,3<br />
<br />
45 - 59<br />
<br />
16<br />
<br />
41<br />
<br />
6<br />
<br />
28,6<br />
<br />
22<br />
<br />
36,7<br />
<br />
60 - 74<br />
<br />
16<br />
<br />
41<br />
<br />
5<br />
<br />
23,8<br />
<br />
21<br />
<br />
35<br />
<br />
75 - 80<br />
<br />
5<br />
<br />
12,8<br />
<br />
7<br />
<br />
33,3<br />
<br />
12<br />
<br />
20<br />
<br />
39<br />
<br />
65<br />
<br />
21<br />
<br />
35<br />
<br />
60<br />
<br />
100<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
2<br />
<br />
p (χ ) = 0,02<br />
<br />
Trên 60 BN nghiên cứu, người cao<br />
tuổi nhất 80, tuổi thấp nhất 23, tuổi trung<br />
bình 61,4. TBMMN gặp nhiều ở nhóm tuổi<br />
45 - 59 (22 BN = 36,7%). Nhóm tuổi từ 45<br />
- 80 chiếm 91,7%. Có 39 BN nam (65%)<br />
và 21 BN nữ (35%), tỷ lệ nam/nữ là<br />
1,86/1. Kết quả này tương đối phù hợp<br />
với nhiều nghiên cứu đã công bố: H.G.M<br />
Boomkamp - Koppen thống kê trên BN<br />
<br />
liệt nửa người do TBMMN có tuổi trung<br />
bình 58,6, BN nữ chiếm 36,4% [4].<br />
Nghiên cứu của Jocelyn E.H gặp TBMMN<br />
phần lớn ở nam, tuổi có liên quan mật<br />
thiết với tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ TBMMN<br />
tăng cùng với tuổi và ít xảy ra trước 40<br />
tuổi, tuổi cao là một yếu tố nguy cơ không<br />
thay đổi của TBMMN [5].<br />
* Bên liệt và tay thuận:<br />
<br />
Bảng 2: Phân bố BN theo bên liệt và tay thuận.<br />
Tay thuận<br />
Bên liệt<br />
<br />
Trái<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
Phải<br />
<br />
p (χ2)<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Liệt nửa người trái<br />
<br />
1<br />
<br />
1,7<br />
<br />
26<br />
<br />
43,3<br />
<br />
27<br />
<br />
45<br />
<br />
Liệt nửa người phải<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
33<br />
<br />
55<br />
<br />
33<br />
<br />
55<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
1<br />
<br />
1,7<br />
<br />
59<br />
<br />
98,3<br />
<br />
60<br />
<br />
100<br />
<br />
Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ BN liệt<br />
nửa người trái và liệt nửa người phải (p ><br />
0,05). Đa số BN thuận tay phải (98,3%);<br />
1 BN thuận tay trái (1,7%). Tỷ lệ liệt nửa<br />
người phải và trái tương đương nhau với<br />
độ tin cậy 95%. Tỷ lệ liệt tay thuận 56,7%.<br />
Kết quả này tương tự với các nghiên cứu<br />
đã công bố: Theo H.G.M Boomkamp 116<br />
<br />
0,439<br />
<br />
Koppen, tỷ lệ BN thuận tay phải 90,9% [2].<br />
Theo Jocelyn E.H và CS, tỷ lệ thuận tay<br />
phải 91,4%, tỷ lệ liệt nửa người phải 43%,<br />
trong đó tỷ lệ tay thuận liệt 45,2% [5].<br />
Nhìn chung, các nghiên cứu không<br />
khác nhau nhiều về tỷ lệ liệt nửa người<br />
phải và trái, sự khác nhau về tỷ lệ tay<br />
thuận là do cách chọn mẫu nghiên cứu,<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
cỡ mẫu và đối tượng nghiên cứu không<br />
giống nhau.<br />
* Loại tổn thương: 31/60 BN TBMMN bị<br />
nhồi máu não (51,7%). Tỷ lệ BN chảy máu<br />
não 48,3%. Theo Jocelyn E.H, nhồi máu<br />
não chiếm 65,4% [5]. Sự khác biệt này là<br />
<br />
do cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn<br />
hoặc do cách chọn đối tượng nghiên cứu<br />
và thời gian nghiên cứu ảnh hưởng đến tỷ<br />
lệ này. Tuy nhiên, để có bằng chứng xác<br />
định cần làm thêm các nghiên cứu với<br />
mẫu lớn hơn và trải rộng nhiều lứa tuổi.<br />
<br />
2. Tình trạng rối loạn nhận thức của BN TBMMN.<br />
* Tỷ lệ rối loạn nhận thức của BN TBMMN:<br />
Bảng 3:<br />
Loại tổn thương<br />
<br />
Rối loạn nhận thức<br />
<br />
Không rối loạn nhận thức<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Nhồi máu não<br />
<br />
23<br />
<br />
38,3<br />
<br />
8<br />
<br />
13,3<br />
<br />
31<br />
<br />
51,6<br />
<br />
Chảy máu não<br />
<br />
22<br />
<br />
36,7<br />
<br />
7<br />
<br />
11,7<br />
<br />
29<br />
<br />
48,4<br />
<br />
45<br />
<br />
75<br />
<br />
15<br />
<br />
25<br />
<br />
60<br />
<br />
100<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
45 BN (75%) bị rối loạn nhận thức sau<br />
TBMMN, trong đó 38,3% BN rối loạn<br />
nhận thức sau nhồi máu não và 36,7%<br />
BN rối loạn nhận thức sau chảy máu não.<br />
Theo Lisman, tỷ lệ rối loạn nhận thức sau<br />
TBMMN là 65% [6]. Nguyễn Văn Quý<br />
nghiên cứu trên 85 BN TBMMN tại Bệnh<br />
viện Nhân dân 115 và Bệnh viện Quân y<br />
175 từ tháng 9 - 2009 đến 4 - 2010 thấy<br />
tỷ lệ rối loạn nhận thức sau TBMMN là<br />
57,6% [1].<br />
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ rối<br />
loạn nhận thức cao hơn các tác giả là do<br />
đối tượng nghiên cứu hoặc cỡ mẫu khác<br />
<br />
nhau. Ngoài ra, đây là trung tâm đầu<br />
ngành về phục hồi chức năng nên BN<br />
nặng được chuyển tới điều trị, những BN<br />
không có rối loạn nhận thức được chuyển<br />
về tuyến dưới. Nhưng có thể thấy, tỷ lệ<br />
rối loạn nhận thức sau TBMMN khá cao.<br />
Do vậy, rối loạn nhận thức là vấn đề cần<br />
được quan tâm để phát hiện, điều trị và<br />
phục hồi chức năng nhận thức sớm, tránh<br />
làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá<br />
trình vật lý trị liệu cũng như làm giảm chất<br />
lượng sống của BN.<br />
* Mức độ rối loạn nhận thức của BN<br />
TBMMN:<br />
<br />
Bảng 4:<br />
Mức độ<br />
<br />
Bình thường<br />
≥ 26 điểm<br />
<br />
Nhẹ<br />
21 - 25 điểm<br />
<br />
Trung bình<br />
8 - 20 điểm<br />
<br />
Nặng<br />
0 - 7 điểm<br />
<br />
Loại tổn thương<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Nhồi máu não<br />
<br />
8<br />
<br />
13,3<br />
<br />
8<br />
<br />
13,3<br />
<br />
11<br />
<br />
18,3<br />
<br />
4<br />
<br />
6,7<br />
<br />
7<br />
<br />
11,7<br />
<br />
6<br />
<br />
10<br />
<br />
13<br />
<br />
21,7<br />
<br />
3<br />
<br />
5<br />
<br />
15<br />
<br />
25<br />
<br />
14<br />
<br />
23,3<br />
<br />
24<br />
<br />
40<br />
<br />
7<br />
<br />
11,7<br />
<br />
Chảy máu não<br />
Tổng<br />
<br />
23,3% BN rối loạn nhận thức mức độ nhẹ; 40% BN ở mức độ trung bình; 11,7%<br />
mức độ nặng và 25% không có rối loạn nhận thức.<br />
117<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
* Đặc điểm rối loạn các lĩnh vực nhận thức:<br />
<br />
Biểu đồ 1: Đặc điểm các lĩnh vực rối loạn nhận thức.<br />
Các lĩnh vực nhận thức bị rối loạn<br />
thường gặp là rối loạn trí nhớ (95%), rối<br />
loạn ngôn ngữ (78,3%), rối loạn khả năng<br />
thị giác (68,3%), rối loạn tập trung<br />
(58,3%), rối loạn khái quát hóa, trừu<br />
tượng (38,3%) và rối loạn định hướng<br />
(31,7%).<br />
Theo Nguyễn Văn Quý, các lĩnh vực<br />
rối loạn nhận thức sau TBMMN thường<br />
gặp là rối loạn thị giác không gian, trừu<br />
tượng, khái quát hóa, độ tập trung và trí<br />
nhớ [1]. Nghiên cứu của Trần Thị Lý<br />
Thanh trên 30 BN bị rối loạn nhận thức<br />
sau TBMMN bằng thang điểm đánh giá<br />
tâm thần tối thiểu, 100% BN có rối loạn trí<br />
nhớ, 60% rối loạn ngôn ngữ; 66,67% rối<br />
loạn trừu tượng; 56,67% rối loạn định<br />
hướng; 33,3% rối loạn về chú ý [2].<br />
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có<br />
sự khác biệt về các lĩnh vực nhận thức bị<br />
rối loạn cũng như tỷ lệ các lĩnh vực so với<br />
các tác giả. Sự khác biệt này là do cách<br />
chọn đối tượng, thời gian nghiên cứu, cỡ<br />
mẫu và đặc biệt là thang đánh giá khác<br />
nhau. Trần Thị Lý Thanh (2014) sử dụng<br />
118<br />
<br />
thang điểm đánh giá tâm thần tối thiểu,<br />
trong khi chúng tôi sử dụng thang điểm<br />
đánh giá nhận thức MoCA, thang điểm<br />
này nhạy hơn trong việc phát hiện rối loạn<br />
nhận thức nhẹ, đánh giá toàn diện các<br />
lĩnh vực rối loạn nhận thức và cung cấp<br />
thông tin lâm sàng hữu ích hơn so với<br />
MMSE [6, 7].<br />
KẾT LUẬN<br />
Qua nghiên cứu tình trạng rối loạn<br />
nhận thức của 60 BN TBMMN bằng thang<br />
điểm đánh giá nhận thức MoCA tại Trung<br />
tâm Phục hồi Chức năng, Bệnh viện Bạch<br />
Mai từ tháng 7 - 2014 đến 4 - 2015,<br />
chúng tôi rút ra các kết luận:<br />
- Tỷ lệ rối loạn nhận thức của BN<br />
TBMMN cao (75%), trong đó chủ yếu rối<br />
loạn nhận thức trung bình (40%) và nhẹ<br />
(23,3).<br />
- Lĩnh vực rối loạn nhận thức thường<br />
gặp là rối loạn trí nhớ (95%), rối loạn<br />
ngôn ngữ (78,3), rối loạn khả năng thị<br />
giác (68,3%), rối loạn độ tập trung<br />
(58,3%).<br />
<br />