JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 1, pp. 121-128<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0014<br />
<br />
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ Y ĐỨC VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC<br />
GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO CÁN BỘ Y TẾ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY<br />
Nguyễn Đức Diện<br />
Khoa Lí luận chính trị, Trường Đại học Y Hà Hội<br />
Tóm tắt. Bài viết tập trung làm rõ cơ sở hình thành và vị trí vấn đề y đức, định hướng chiến<br />
lược cho ngành y và quan điểm chỉ đạo vấn đề y đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh; từ đó<br />
phân tích ý nghĩa của vấn đề, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục y<br />
đức cho cán bội y tế trong bối cảnh cơ chế thị trường, toàn cầu hóa hiện nay.<br />
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, y đức, giáo dục y đức, cán bộ y tế.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nội dung trọng tâm trong toàn bộ hệ thống tư tưởng<br />
của Người. Tư tưởng đó xuất phát từ nhu cầu đấu tranh cách mạng giải phóng cho giai cấp công<br />
nhân và toàn thể nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bất công, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã<br />
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được sống tự do và hạnh phúc<br />
trong tình yêu thương. Trước sự nghiệp cách mạng khó khăn và phức tạp, Hồ Chí Minh đã nêu cao<br />
vấn đề đạo đức cách mạng và yêu cầu cán bộ rèn luyện đạo đức để phục vụ cho lợi ích cách mạng.<br />
Từ yêu cầu chung đó, với mỗi ngành nghề, mỗi đối tượng khác nhau như giáo viên, bộ đội, công<br />
an. . . , Người có những yêu cầu về phẩm chất đạo đức cụ thể, gắn với đặc thù nghề nghiệp. Trong<br />
đó, từ việc quan tâm tới sức khỏe của nhân dân, Người đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục y đức<br />
cho cán bộ ngành y trên tinh thần “Lương y như từ mẫu”. Ngày nay, trong sự phát triển của nền<br />
kinh tế thị trường, luân thường đạo lí và đạo đức nghề nghiệp có chiều hướng suy thoái. Một bộ<br />
phận không nhỏ y bác sĩ thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của bệnh nhân, hành động ngược với y đức,<br />
làm hoen ố hình ảnh cao quý của người thầy thuốc trong truyền thống dân tộc. Thực hiện việc học<br />
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ ngành y cần phải tu dưỡng, rèn luyện<br />
đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại.<br />
Đã có một số bài viết về y đức như: Góp phần bàn về những vấn đề đạo đức của người thầy<br />
thuốc Việt Nam (Trần Văn Thụy, Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 2/1997) [8]; Mâu thuẫn giữa mặt<br />
trái của cơ chế thị trường với bản chất nhân đạo của ngành y tế Việt Nam hiện nay (Phạm Công<br />
Nhất, Tạp chí Giáo dục lí luận, số 6/1999) [7]; Y đức và nâng cao y đức (Phạm Mạnh Hùng, Tạp<br />
chí Cộng sản, số 7/2002) [2]. Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết đề cập tới tư tưởng Hồ Chí<br />
Minh về y đức như: Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức với việc nâng cao y đức thầy thuốc hiện<br />
nay của Hoàng Anh Tuấn (http://bqllang.gov.vn, Trang tin điện tử Ban Quản lí lăng Chủ tịch Hồ<br />
Chí Minh, 28/02/2013) [9] trình bày ngắn gọn tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của y đức<br />
Ngày nhận bài: 10/11/2015. Ngày nhận đăng: 15/2/2016.<br />
Liên hệ: Nguyễn Đức Diện, e-mail: ducdien_nguyen@yahoo.com<br />
<br />
121<br />
<br />
Nguyễn Đức Diện<br />
<br />
trong xã hội; vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nâng cao y đức thầy thuốc hiện nay<br />
còn mờ nhạt; bài viết Vấn đề y đức người thầy thuốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh của<br />
Hải Diễm (http://www.soctrang.gov.vn, Cổng Thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng, 22/02/2011) [1]<br />
tập trung làm rõ những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng ngành y và cán bộ nhân viên y<br />
tế; Nguyễn Thanh Tịnh với bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế và đạo đức người thầy thuốc<br />
(http://www.xaydungdang.org.vn, Tạp chí Xây dựng Đảng, 29/7/2014) [10]; Nguyễn Hiền Lương<br />
với bài Giáo dục và rèn luyện đạo đức người cán bộ y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Tạp chí Cộng<br />
sản, số 1/2013) [3] tập trung làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức<br />
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Vũ Hoài Nam với bài Một số yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng<br />
giáo dục y đức trong đào tạo bác sĩ ở Học viện Quân y hiện nay (Tạp chí Khoa học số 1/2015) [6]<br />
phân tích các yêu cầu về xây dựng chương trình, đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức giáo<br />
dục y đức cho học viên, sinh viên y khoa. . . Bên cạnh đó, còn có một số luận văn, luận án nghiên<br />
cứu về một số khía cạnh khác nhau trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, về y đức. Tuy nhiên, cho<br />
tới nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở lí luận triết học<br />
những quan điểm của Hồ Chí Minh về y đức và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục y đức cho cán<br />
bộ y tế trong tình hình hiện nay.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức<br />
<br />
2.1.1. Cơ sở hình thành và vị trí vấn đề y đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh<br />
Xuất phát điểm vấn đề y đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh là từ truyền thống y đức của dân<br />
tộc và nhân loại. Vấn đề y đức hình thành và phát triển cùng với lịch sử ngành y. Y đức là những<br />
tiêu chuẩn, quy tắc nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của người thầy thuốc trong lĩnh vực y tế. Đó<br />
là thước đo lương tâm, trách nhiệm và bổn phận của người thầy thuốc. Bởi vậy, dù ở bất kì thời đại<br />
nào, nhân loại cũng luôn đề cao y đức, coi y đức quan trọng không kém gì y thuật. So với những<br />
ngành nghề khác, nghề thầy thuốc có những nét đặc thù. Đối tượng mà họ tiếp xúc hàng ngày là<br />
những người đau đớn về thể xác và tinh thần, mong mỏi sự giúp đỡ của thầy thuốc. Vì vậy, những<br />
phẩm chất đạo đức của con người ở những ngành nghề khác có thể đủ cho họ thực hiện tốt công<br />
việc của mình thì vẫn là chưa đủ đối với người thầy thuốc. Với bất kì ngành nghề nào, sai lầm trong<br />
nghề nghiệp đều để lại những hậu quả xấu, song với nghề y, sai lầm dù nhỏ cũng có thể để lại hậu<br />
quả rất lớn vì nó liên quan trực tiếp tới sinh mệnh con người. Bởi vậy, yêu cầu đạo đức nghề nghiệp<br />
càng đặc biệt quan trọng với nghề y. Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã từng tự bạch:<br />
“Suy nghĩ thật sâu xa tôi hiểu rằng thầy thuốc là bảo vệ sinh mạng cho con người, sống chết một<br />
tay mình nắm, hoạ phúc một tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh<br />
không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái<br />
nghề cao quý đó chăng” (Y huấn cách ngôn).<br />
Kế thừa truyền thống y đức của dân tộc, tiếp thu tinh hoa y đức của nhân loại, từ cương vị<br />
người đứng đầu đất nước, Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt tới nền y tế đất nước, đặc<br />
biệt là đạo đức người thầy thuốc. Tư tưởng về y đức của Hồ Chí Minh còn xuất phát từ yêu cầu<br />
của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và từ tình yêu thương sâu sắc với con<br />
người – vấn đề căn bản, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh. Con người là nhân tố quan trọng, có ý<br />
nghĩa quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Yêu thương con người là phải quan tâm tới con người<br />
toàn diện về thể chất và tinh thần, về kinh tế, chính trị, văn hóa và đạo đức. Lí tưởng nhân văn cao<br />
đẹp của Hồ Chí Minh là làm cách mạng giải phóng con người toàn diện, triệt để khỏi áp bức bất<br />
công, nghèo nàn lạc hậu, phát triển con người toàn diện, trong đó có vấn đề sức khỏe. Người nói:<br />
122<br />
<br />
Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức và ý nghĩa đối với việc giáo dục y đức cho cán bộ y tế...<br />
<br />
“Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước<br />
mạnh khỏe. . . Dân cường thì quốc thịnh” [9]. Bởi vậy, bên cạnh việc quan tâm tới đời sống kinh<br />
tế, văn hóa, giáo dục. . . , Người cũng rất quan tâm tới sức khỏe của nhân dân. Người nói: “Giữ<br />
gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây dựng đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm<br />
thành công” [9]. Năm 1953, Hồ Chí Minh đã viết trong Thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc<br />
năm 1953: “Sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh<br />
thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công” [5,<br />
tr.88-89]. Để bảo vệ sức khỏe của nhân dân, cần quan tâm tới y tế, đặc biệt là vấn đề y đức. Nếu<br />
chữ Dân được xuất hiện nhiều nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì đối tượng cần phải được quan<br />
tâm nhiều nhất trong Dân là những người chịu thiệt thòi, đau khổ vì ốm đau, bệnh tật. Bởi vậy,<br />
sau đạo đức của người cán bộ cách mạng nói chung, đạo đức ngành y được Hồ Chí Minh bàn tới<br />
nhiều nhất. Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư hoặc trực tiếp thăm các cơ sở y tế, bày tỏ quan điểm<br />
về phẩm chất người thầy thuốc. Ngày 27/2/1955, trong Hội nghị cán bộ y tế tổ chức tại Hà Nội,<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho hội nghị. Nội dung bức thư mang tính định hướng chiến lược<br />
sâu sắc cho ngành y tế. Bởi vậy, ngày 27/2 đã trở thành Ngày Thầy thuốc Việt Nam – ngày truyền<br />
thống của ngành Y tế. Trong thư, Người viết: “Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa<br />
bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang” [5, tr.476]. Người ví,<br />
thầy thuốc là “những chiến sĩ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi” [4, tr.1036].<br />
Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai<br />
nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán<br />
không tốt thì dần dần xóa bỏ” [9]. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt, nhân văn như thế, ngành<br />
y tế cần thấy được vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của mình để từ đó xác định nhiệm vụ, trọng<br />
trách phù hợp. Người đã tặng cán bộ, nhân viên ngành y danh hiệu cao quý: “Thầy thuốc như mẹ<br />
hiền”. Đây cũng là yêu cầu Hồ Chí Minh đặt ra về phương châm xử thế, phương châm hành động<br />
đối với cán bộ, nhân viên ngành y trong mối quan hệ với bệnh nhân.<br />
<br />
2.1.2. Định hướng chiến lược cho ngành y trong tư tưởng Hồ Chí Minh<br />
Quan điểm chỉ đạo mang tính định hướng của Hồ Chí Minh cho nền y học Viêt Nam là:<br />
“Xây dựng một nền y học của ta - Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành<br />
khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập, tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp chính phủ<br />
xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc:<br />
khoa học, dân tộc và đại chúng” [5, tr.476]. Khoa học, dân tộc và đại chúng, đó là nguyên tắc của<br />
nền y học Việt Nam. Theo Người, ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách<br />
chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Vì vậy, để mở rộng phạm vi y học, cán bộ y tế nên chú trọng<br />
nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây. Người nói: “Thuốc tây chữa được nhiều bệnh,<br />
nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc ta chữa được; thuốc ta chữa được nhiều bệnh,<br />
nhưng cũng có bệnh chữa không được mà thuốc tây chữa được... Bên nào cũng có cái ưu điểm, hai<br />
cái ưu điểm cộng lại thì chữa được bệnh tốt cho đồng bào, cho nhân dân, phục vụ cho xây dựng<br />
chủ nghĩa xã hội. Thầy thuốc tây phải học Đông y, thầy thuốc ta cũng phải học Tây y... Thầy thuốc<br />
ta và thầy thuốc tây đều phục vụ nhân dân, như người có hai cái tay, hai bàn tay cùng làm việc<br />
thì làm việc được tốt, cho nên phải đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên, đoàn kết thuốc ta và<br />
thuốc tây thành một khối để chữa bệnh cho đồng bào” [4]. Đó chính là sự kết hợp giữa y học hiện<br />
đại và y học dân tộc. Trong Thư gửi Hội nghị Y tế Liên khu, Người phát động một phong trào thi<br />
đua trong ngành y: “1) Nay những thứ thuốc ta quen dùng, càng ngày càng hiếm, vì vậy anh em<br />
y tế nên thi đua nhau tìm ra những thứ thuốc mà nước ta sẵn có nguyên liệu; 2) Cùng những thứ<br />
thuốc ta có, anh em nên thi đua cùng nhau tìm cách chữa chóng khỏi mà tốn ít thuốc; 3) . . . Anh<br />
em nên thi đua nhau tìm ra những thứ thuốc dễ sắm nhất và hiệu nghiệm nhất. Ngoài ra, cách tổ<br />
chức làm việc, tuyên truyền vệ sinh, số bệnh nhân được chữa khỏi; giúp đỡ dân chúng, vân vân,<br />
123<br />
<br />
Nguyễn Đức Diện<br />
<br />
đều là những điểm cần đưa vào cuộc thi đua” [4, tr.548]. Trong bài viết “Y tế ở Liên Xô” (Báo<br />
Nhân dân, số 444, ngày 7/12/1955) [5], Hồ Chí Minh đã viết về những đặc điểm của nền y tế kiểu<br />
mới ở nước này: Hợp lí, phát triển việc nghiên cứu, đủ thầy thuốc, nhân đạo, từ đó Người cũng có<br />
mong muốn như bác sĩ Guilăng là cần phải học tập nền y tế kiểu mới này để cải tạo y tế nước nhà.<br />
Đó cũng là định hướng chiến lược đúng đắn cho sự phát triển y tế đất nước. Quan điểm này không<br />
chỉ thể hiện tầm trí tuệ cao mà còn thể hiện tâm đức của một con người vĩ đại, suốt cuộc đời vì<br />
nước vì dân.<br />
<br />
2.1.3. Quan điểm chỉ đạo về y đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh<br />
Kế thừa truyền thống y đức của dân tộc và thế giới, Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan<br />
điểm cụ thể về y đức. Những quan điểm đó đã trở thành phương châm chỉ đạo cho cán bộ, nhân<br />
viên y tế và toàn bộ ngành y tế của đất nước. Trong Thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế toàn quốc năm<br />
1953, Hồ Chí Minh viết: “Sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng<br />
hái. Tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành<br />
công. Nhiệm vụ ấy có hai phần: Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh, để làm tròn nhiệm vụ ấy<br />
cán bộ y tế (bác sĩ, y tá, những người giúp việc) cần phải: Thương yêu người bệnh như anh em ruột<br />
thịt; cần phải tận tâm tận lực phụng sự nhân dân. “Lương y phải kiêm từ mẫu”. Cán bộ y tế nên cố<br />
gắng thực hiện mấy điểm này: Về chuyên môn: Cần luôn luôn học tập nghiên cứu để luôn luôn tiến<br />
bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta hiện nay;<br />
Về chính trị: Cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước,<br />
yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác; Về tổ chức: Cần chỉnh đốn<br />
và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới làm cho nó gọn gàng, hợp lí, ít tốn người tốn của mà làm<br />
được nhiều việc ích lợi cho nhân dân; Về cán bộ: Cần lựa chọn và đào tạo nhiều cán bộ mới trong<br />
số thanh niên nam nữ, dạy cho họ những công tác cần thiết trong nhân dân, trong dân công ở vùng<br />
tạm chiếm và vùng rừng núi” [5, tr.88-89]. Trong lời căn dặn của Người, nổi lên tinh thần chủ đạo<br />
về y đức với nội dung cốt lõi: Một cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt phải đoàn kết với đồng nghiệp<br />
và thương yêu, tận tâm tận lực với người bệnh.<br />
Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu về tinh thần đoàn kết trong cán bộ ngành y tế. Tinh thần<br />
“đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là nhân tố làm nên sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam,<br />
tạo nên những thành công vang dội trong cách mạng. Bởi vậy, trong ngành y, Hồ Chí Minh cũng<br />
đặt vấn đề đoàn kết lên hàng đầu. Trong thư gửi cán bộ ngành y năm 1955, Người nhấn mạnh:<br />
“Trước hết là phải thật thà đoàn kết - Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được<br />
mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa<br />
tất cả những người trong ngành y tế, từ các Bộ trưởng, Thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các<br />
anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một<br />
bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân” [5, tr.476]. Tinh thần đoàn kết<br />
của Người hàm chứa trong đó cả sự bình đẳng, dân chủ, không phân biệt địa vị cao thấp, hợp tác<br />
để vượt qua mọi gian nan, thử thách, hướng tới mục đích cao cả chung: phục vụ nhân dân. Trong<br />
ngành y, một bệnh nhân là đối tượng của nhiều thầy thuốc. Các thầy thuốc phải hợp tác với nhau<br />
trên tinh thần đồng đội, đồng nghiệp để cứu chữa người bệnh. Thành công hay thất bại trong công<br />
việc đều là kết quả của sự hợp tác tập thể. Nếu không có sự đoàn kết thì khó có thể hoàn thành<br />
nhiệm vụ và nếu hoàn thành được nhiệm vụ thì hiệu quả cũng không cao.<br />
Khác với những ngành nghề khác, đối tượng của ngành y là bệnh nhân – những người ốm<br />
đau, bệnh tật, chịu đau đớn về thể xác và tinh thần. Bởi vậy, nếu yêu thương con người là phẩm<br />
chất đạo đức cần phải có trong lương tâm, trách nhiệm của mỗi con người thì đối với cán bộ ngành<br />
y, tình yêu thương ấy càng cần phải lớn lao, cao cả hơn. Hồ Chí Minh dặn dò cán bộ ngành y bằng<br />
những lời tâm huyết, chân tình: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính<br />
124<br />
<br />
Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức và ý nghĩa đối với việc giáo dục y đức cho cán bộ y tế...<br />
<br />
phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là một<br />
nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần thương yêu, chăm sóc người bệnh như anh em ruột thịt<br />
của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng” [5,<br />
476-477].<br />
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức, người thầy thuốc phải có lương tâm và trách nhiệm<br />
như người mẹ đối với đứa con của mình, như người thân đối với những người thân. Lương tâm<br />
và nghĩa vụ, trách nhiệm là hai mặt thống nhất biện chứng trong y đức của người thầy thuốc. Bản<br />
thân từ “lương y” cũng hàm chứa trong đó ý nghĩa về lương tâm, trách nhiệm đạo đức của người<br />
thầy thuốc. Lương tâm của người thầy thuốc thể hiện ở tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức. Tình<br />
cảm đạo đức là sự cảm thông sâu sắc tới mức trở thành nỗi xót thương, sự đồng cảm với nỗi đau<br />
của bệnh nhân. Tình cảm ấy phù hợp những yêu cầu và chuẩn mực đạo đức của xã hội, trở thành<br />
động cơ bên trong thúc đẩy người thầy thuốc hành động vì bệnh nhân một cách tự nguyện, tự giác,<br />
đem lại kết quả cao nhất trong quá trình chữa bệnh. Lương tâm có chức năng tự đánh giá hành vi<br />
đạo đức nên nó cũng đồng thời hàm chứa cả trí tuệ, sự hiểu biết của con người. Lương tâm nghề<br />
nghiệp là cơ sở để hình thành thái độ ứng xử ân cần, dịu dàng, kiên nhẫn, tận tâm tận lực của thầy<br />
thuốc với bệnh nhân. Trong thư gửi Hội nghị Quân y tháng 3 năm 1948, Hồ Chí Minh đã căn dặn:<br />
“Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật, mà còn phải nâng đỡ tinh thần<br />
những người ốm yếu. . . Khi gặp những ca anh em thương binh thiếu trấn tĩnh, người thầy thuốc<br />
nên lấy lòng nhân đạo và tình thân ái mà cảm hóa họ. . . ” [4, tr.864].<br />
Lương tâm nhắc nhở người thầy thuốc phải lấy lao động chính đáng bằng tài năng, trí tuệ<br />
của mình làm lẽ sống, lấy việc phục vụ hết lòng cho người bệnh làm mục đích cho hành động,<br />
biết hối hận, day dứt trước việc làm chưa đúng, biết tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên<br />
môn, nghiệp vụ. Người thầy thuốc phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình, đó là việc phải phục<br />
tùng nhiệm vụ được phân công trên cương vị của người thầy thuốc. Song nếu chỉ có thế thôi vẫn<br />
chưa đủ. Chỉ khi nào người thầy thuốc thực hiện hành động của mình từ góc độ nghĩa vụ đạo đức,<br />
xuất phát từ sự tự giác bên trong, do sự thôi thúc của lương tâm thì khi đó họ mới thật sự trở thành<br />
lương y, thành từ mẫu đối với bệnh nhân. Khi hành động xuất phát từ sự thôi thúc nội tâm, người<br />
thầy thuốc sẽ phấn đấu để vừa có đức vừa có tài. Đức thể hiện ở tình yêu thương với bệnh nhân,<br />
tận tâm tận lực với người bệnh và sự tận tâm tận lực ấy thể hiện thành những nỗ lực cố gắng cứu<br />
chữa người bệnh bằng tài năng, sức lực, bằng tâm và trí của mình. Bởi vậy, phải có sự thống nhất<br />
giữa y đức và y nghiệp. Y đức là thước đo lương tâm, nghĩa vụ của người thầy thuốc. Y nghiệp<br />
phải thể hiện thành năng lực chuyên môn, tài năng của người thầy thuốc, thành tính hiệu quả trong<br />
việc chữa bệnh cứu người. Đức và tài phải gắn bó chặt chẽ với nhau, như mối quan hệ giữa hồng<br />
và chuyên. Trong đó, đức phải là gốc, là cơ sở, động lực cho tài. Tài làm cho đức càng lớn, càng<br />
sáng trong hơn. Nếu thầy thuốc chỉ có tài mà không có đức thì tài năng ấy sẽ bị lạm dụng, gây tổn<br />
hại cho người bệnh.<br />
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và<br />
chống Mỹ, nhiều cán bộ y tế đã quên mình để cứu chữa thương bệnh binh. Bác sĩ Trần Hữu Tước,<br />
Hồ Đắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Đặng Thùy Trâm . . . là những tấm<br />
gương sáng ngời về y đức. Tiếp nối truyền thống hào hùng ấy, trong thời kì hoà bình, các cán bộ y<br />
tế tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu y học hiện đại, ra sức cứu chữa người bệnh, đem<br />
lại sức khoẻ, hạnh phúc cho nhân dân.<br />
<br />
125<br />
<br />