JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2017, Vol. 62, No. 1A, pp. 14-22<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0025<br />
<br />
VỀ THỰC TRẠNG KĨ NĂNG DẠY HỌC TRÊN LỚP<br />
CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
Trương Thị Bích<br />
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Bài viết đề cập đến các vấn đề khái niệm kĩ năng và kĩ năng dạy học, hệ thống<br />
kĩ năng dạy học, kĩ năng dạy học của giảng viên đại học sư phạm và thực trạng một số kĩ<br />
năng dạy học trên lớp của giảng viên đại học sư phạm. Các vấn đề này là cơ sở cho định<br />
hướng xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng dạy học cho giảng viên Trường Đại<br />
học Sư phạm Hà Nội nói riêng và giảng viên các trường/khoa sư phạm nói chung.<br />
Từ khóa: Kĩ năng dạy học, nghề dạy học, kĩ năng tìm hiểu đối tượng người học, kĩ năng<br />
đặt và sử dụng câu hỏi, kĩ năng thuyết trình.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
“Năng lực của mỗi cá nhân được cấu thành từ ba bộ phận cơ bản: Tri thức về lĩnh vực hoạt<br />
động (Năng lực biết); Kĩ năng tiến hành hoạt động (Năng lực làm); và Những điều kiện tâm lí để tổ<br />
chức và thực hiện tri thức, kĩ năng đó trong một cơ cấu thống nhất và có định hướng rõ ràng (Năng<br />
lực biểu cảm)” [1]. Theo cách hiểu này thì Kĩ năng dạy học là một trong ba yếu tố cấu thành nên<br />
năng lực dạy học của người giáo viên. Trong môi trường đại học sư phạm, hệ thống kĩ năng dạy<br />
học của người giảng viên đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, một mặt bản thân giảng viên cần có kĩ năng<br />
để “chuyển” tri thức một cách có hiệu quả nhất đến với người học. Mặt khác, người học - những<br />
giáo viên tương lai cũng rất cần được trang bị các kĩ năng dạy học cho phát triển nghề nghiệp sau<br />
này và việc được lĩnh hội tri thức từ các giảng viên giàu kinh nghiệm là một “kênh” để người học<br />
tiếp nhận, học hỏi hoàn thiện kĩ năng sư phạm bên cạnh sự hoàn thiện về tri thức chuyên môn và<br />
thái độ tích cực với nghề dạy học. Theo đó, đã có nhiều công trình quan tâm nghiên cứu vấn đề<br />
này cả trong nước và ngoài nước.<br />
Những năm gần đây, nhiều học giả trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này ở bậc<br />
đại học. Tác giả Robert Marzano, Debra j.Pickering, Jane E. Pollock [2] trong cuốn Các phương<br />
pháp dạy học hiệu quả (Classroom instruction that works) đã giới thiệu các phương pháp dạy học<br />
hiệu quả được rút ra từ nhiều công trình nghiên cứu thực tế giảng dạy và lí thuyết tổng hợp với mục<br />
đích phát huy cao độ khả năng học tập của người học, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng<br />
viên đứng lớp. SD. Brookfield [3], B.G. Erickson và D.W. Strommer [4], F.Marton, D. Hounsell<br />
và N. Entwistle [5], P. Ramsden [6] đã mang đến cho người đọc thông điệp để trở thành một giáo<br />
Ngày nhận bài: 10/12/2016. Ngày nhận đăng: 12/2/2017.<br />
Tác giả liên lạc: Trương Thị Bích, địa chỉ e-mail: bichnxbgd@gmail.com<br />
<br />
14<br />
<br />
Về thực trạng kĩ năng dạy học trên lớp của giảng viên đại học sư phạm<br />
<br />
viên giỏi, trước hết phải hiểu được những trải nghiệm trong học tập của sinh viên. Các tác giả cho<br />
rằng giảng viên đại học có thể phát triển khả năng dạy học nếu họ áp dụng các kết quả từ nghiên<br />
cứu vào việc học tập của sinh viên. Cuốn Những thủ thuật trong dạy học - Các chiến lược nghiên<br />
cứu và lí thuyết về dạy học dành cho giảng viên đại học và cao đẳng [7] đã cung cấp cho giảng<br />
viên những kĩ năng đơn giản nhưng có thể giúp sinh viên tham gia vào bài học để họ có thể học và<br />
thực hành.<br />
Ở Việt Nam, tác giả Kiều Thế Hưng trong Kĩ năng dạy học trong những lời giải cho bài<br />
toán nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên hiện nay [8] đã cho rằng là một trường đào tạo nghề<br />
dạy học, ngoài các hoạt động chuyên môn, việc nghiên cứu để cho ra đời các công trình khoa học<br />
về kĩ năng dạy học là đặc biệt quan trọng. Trong trường sư phạm, sinh viên phải được học cách<br />
học, học cách dạy, học cách giáo dục, học cách ứng xử,. . . nghĩa là học được các thao tác, các kĩ<br />
năng,. . . để đủ tự tin đứng trên bục giảng khi tốt nghiệp ra trường. Tác giả Phan Trọng Ngọ, trong<br />
Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường [9]; Đặng Thành Hưng, trong Dạy học hiện<br />
đại - Lí luận - Biện pháp - Kĩ thuật [10] đã trình bày những quan niệm lí thuyết, những phương<br />
pháp và kĩ thuật dạy học phong phú và quý giá trong khoa học giáo dục và thực tiễn nhà trường.<br />
Trên cơ sở nền tảng lí luận trên, và trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn của đề tài khoa học công nghệ<br />
cấp Trường (Mã số: SPHN 16-05-VNCSP), bài viết tập trung phân tích thực trạng một số kĩ năng<br />
dạy học trên lớp của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội như kĩ năng đặt và sử dụng câu<br />
hỏi, kĩ năng tìm hiểu đối tượng người học và kĩ năng dạy học thuyết trình.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Một số vấn đề về kĩ năng dạy học<br />
<br />
* Khái niệm<br />
Kĩ năng: Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997 thì Kĩ năng là khả năng vận dụng<br />
những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế (Tr. 501).<br />
Mỗi kĩ năng chỉ có ý nghĩa khi gắn nó với việc thực hiện một nội dung hoạt động cụ thể<br />
nhằm đạt tới mục tiêu cụ thể. “Kĩ năng là kết quả của sự tập hợp những kiến thức đã có và những<br />
thói quen, kinh nghiệm trong cùng một lĩnh vực hoạt động sống của cá nhân” hay “Kĩ năng là hệ<br />
thống các thao tác, những cách thức hành động phù hợp để thực hiện có kết quả một hoạt động<br />
dựa trên những tri thức nhất định” [1]. Kĩ năng được hình thành trong quá trình sống, quá trình<br />
hoạt động của con người và vì vậy nó phải xuất phát từ kiến thức, kĩ xảo đã có. Kĩ năng có các đặc<br />
điểm sau: tính chính xác, tốc độ thực hiện hoạt động, khả năng độc lập thực hiện công việc và tính<br />
linh hoạt.<br />
Kĩ năng dạy học: Kĩ năng dạy học là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hoặc một hệ<br />
thống thao tác phức hợp của một hành động giảng dạy dựa trên tri thức chuyên môn và nghiệp vụ<br />
cần thiết vào các tình huống dạy học xác định. Kĩ năng dạy học chỉ có thể hình thành bằng cách<br />
luyện tập, tạo ra năng lực thực hiện các hành động sư phạm không chỉ trong những điều kiện quen<br />
thuộc mà còn cả trong những điều kiện thay đổi. Kĩ năng dạy học cơ bản là những dạng chuyên<br />
biệt của năng lực thực hiện của cá nhân trong việc giải quyết các nhiệm vụ dạy học hoặc năng lực<br />
tiến hành hoạt động dạy học. Người giáo viên cần phải được đặt trong một điều kiện, môi trường<br />
thuận lợi để có cơ hội hình thành và rèn luyện các kĩ năng cần thiết cho công việc của họ.<br />
Kĩ năng dạy học trên lớp là hệ thống các thao tác kĩ thuật dạy học và giao tiếp của giáo viên<br />
được thực hiện một cách có kết quả trong suốt quá trình đứng lớp với những điều kiện cụ thể, trong<br />
15<br />
<br />
Trương Thị Bích<br />
<br />
các tiết học cụ thể dựa trên tri thức chuyên môn và nghiệp vụ nhất định.<br />
* Những kĩ năng cơ bản của nghề dạy học<br />
Có 3 nhóm kĩ năng dạy học cơ bản: Nhóm kĩ năng chuẩn bị bài giảng, Nhóm kĩ năng thực<br />
hiện bài giảng và Nhóm kĩ năng kiểm tra, đánh giá.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Thực trạng một số kĩ năng của giảng viên trong quá trình dạy học trên lớp<br />
<br />
Theo nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tìm hiểu thực trạng một số kĩ năng thuộc<br />
nhóm kĩ năng thực hiện bài dạy trên lớp. Cụ thể là: Kĩ năng tìm hiểu đối tượng người học của giảng<br />
viên; Kĩ năng thuyết trình; Kĩ năng đặt và sử dụng câu hỏi. Đối tượng khảo sát là 117 sinh viên<br />
thuộc các khoa của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Khoa Toán - Tin, Khoa Sinh, Khoa Lịch sử,<br />
Khoa Địa lí, Khoa Hóa học, Khoa Ngữ văn.<br />
<br />
16<br />
<br />
Về thực trạng kĩ năng dạy học trên lớp của giảng viên đại học sư phạm<br />
<br />
2.2.1. Thực trạng kĩ năng tìm hiểu đối tượng người học của giảng viên<br />
<br />
Stt<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
<br />
Bảng 1. Đánh giá của sinh viên về thực trạng kĩ năng tìm hiểu<br />
đối tượng người học của giảng viên<br />
Các mức độ (%)<br />
Một<br />
Phần<br />
Rất ít<br />
Tất cả<br />
phần<br />
lớn<br />
giảng<br />
Nội dung<br />
ĐTB<br />
ĐLC giảng<br />
nhỏ<br />
giảng<br />
viên<br />
viên<br />
giảng<br />
viên<br />
viên<br />
Biết hầu hết tên sinh viên trong<br />
1,93<br />
0,85<br />
36,7<br />
36,7<br />
23,3<br />
3,3<br />
quá trình dạy học<br />
Nắm được học lực, trình độ nhận<br />
2,0<br />
0,85<br />
33,3<br />
30<br />
36,7<br />
0<br />
thức của mỗi sinh viên<br />
Hiểu tính cách sinh viên<br />
1,56<br />
0,66<br />
53,3<br />
36,7<br />
10<br />
0<br />
Hiểu hoàn cảnh sinh viên<br />
1,23<br />
0,49<br />
80<br />
16,7<br />
3,3<br />
0<br />
Trung bình<br />
1,69<br />
0,8<br />
50,7<br />
29,9<br />
18,2<br />
1,04<br />
<br />
Bảng 1 thể hiện kết quả đánh giá của sinh viên đối với kĩ năng tìm hiểu đối tượng người<br />
học trong quá trình dạy học trên lớp của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Kết quả<br />
khảo sát cho thấy sinh viên nhận định số giảng viên nhớ được tên người học, hiểu được tính cách,<br />
năng lực cũng như hoàn cảnh người học chưa nhiều. Có tới 50,7% sinh viên cho rằng rất ít giảng<br />
viên có được khả năng này. Trong đó có tới 80% sinh viên đánh giá hầu hết giảng viên chưa hiểu<br />
được hoàn cảnh của sinh viên. Tuy nhiên, con số 36,7% đánh giá phần lớn giảng viên nắm được<br />
học lực, trình độ nhận thức của mỗi sinh viên là tương đối khả quan. Giải thích điều này, khi được<br />
phỏng vấn, cả giảng viên và sinh viên đều cho rằng: Thầy cô là người trực tiếp đứng lớp giảng dạy<br />
và qua thời gian tiếp xúc, qua việc thực hiện các bài tập, qua các bài kiểm tra thường xuyên và<br />
định kì, giảng viên có nhiều cơ hội để nắm được khả năng của sinh viên. Còn với đặc thù của môi<br />
trường đại học, sinh viên đến từ nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước. Các em lại có khả năng<br />
tự chủ cao nên giảng viên không có nhiều cơ hội và cũng không cần thiết phải hiểu hết hoàn cảnh<br />
của sinh viên. Tỉ lệ sinh viên cho rằng tất cả giảng viên đều có khả năng hiểu đối tượng người học<br />
rất khiêm tốn (1,04%). Trong đó có 3 nội dung không có sinh viên nào cho rằng tất cả giảng viên<br />
đều hiểu rõ đối tượng người học. Khi phỏng vấn giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tất<br />
cả giảng viên đều khẳng định rằng rất cần thiết phải hiểu được đối tượng người học là sinh viên<br />
nhưng không thể làm được. Lí do vì thầy cô quá bận, môn học lại ít thời gian, có khi chỉ 1 - 2 tín<br />
chỉ. Một số khác cho rằng sinh viên đã là người học trưởng thành, không nhất thiết phải hiểu rõ để<br />
cầm tay chỉ việc trong quá trình dạy học như học sinh phổ thông. Tuy nhiên, lí luận dạy học hiện<br />
đại và tâm lí học dạy học đã khẳng định rằng nếu người dạy và người học thiếu sự thấu hiểu và<br />
đồng cảm thì sẽ khó tạo ra sự tương tác dân chủ trong dạy và học. Hiệu quả tiết học vì thế sẽ giảm<br />
đi đáng kể.<br />
<br />
2.2.2. Thực trạng kĩ năng và hiệu quả đặt, sử dụng câu hỏi của giảng viên<br />
* Thực trạng kĩ năng đặt và sử dụng câu hỏi của giảng viên<br />
Bảng 2 phản ánh kết quả đánh giá của sinh viên về thực trạng sử dụng kĩ năng đặt câu hỏi<br />
17<br />
<br />
Trương Thị Bích<br />
<br />
trong dạy học trên lớp của giảng viên. Kết quả sinh viên đánh giá thực trạng giảng viên ở các mức<br />
độ “hiếm khi” và “thỉnh thoảng” chú trọng đến kĩ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học chiếm tỉ<br />
lệ khá cao, bình quân chiếm 45,7% và 37,7%. Số sinh viên đánh giá giảng viên thường xuyên sử<br />
dụng các loại câu hỏi trong giờ dạy trên lớp chiếm tỉ lệ rất thấp (3,5%) và tỉ lệ đánh giá giảng viên<br />
không bao giờ sử dụng câu hỏi là 13%. Riêng nội dung 7 (Hướng dẫn sinh viên cách đặt các loại<br />
câu hỏi để tranh luận với thầy cô, bạn bè) có tỉ lệ 0%. Điều đó nói lên rằng giảng viên đại học sư<br />
phạm chưa tạo ra nhiều sự tương tác với người học trong giờ dạy trên lớp.<br />
<br />
Stt<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
6<br />
<br />
7<br />
<br />
Bảng 2. Đánh giá của sinh viên về thực trạng kĩ năng đặt và sử dụng câu hỏi trên lớp<br />
của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Các mức độ (%)<br />
Không<br />
Hiếm<br />
Thỉnh Thường<br />
Nội dung<br />
ĐTB ĐLC bao<br />
khi<br />
thoảng<br />
xuyên<br />
giờ<br />
Xây dựng câu hỏi nhằm kiểm tra,<br />
2,35<br />
0,65<br />
8,5<br />
48,7<br />
41<br />
1,7<br />
đánh giá mức độ tiếp thu các kiến<br />
thức đã học của sinh viên<br />
Xây dựng các câu hỏi phù hợp với<br />
2,41<br />
0,74<br />
10,3<br />
42,7<br />
41,9<br />
5,1<br />
nội dung bài học của sinh viên<br />
Sử dụng các câu hỏi đa dạng,<br />
phong phú để đánh giá trình độ<br />
2,43<br />
0,77<br />
12<br />
38,5<br />
43,6<br />
6,0<br />
nhận thức của mỗi sinh viên<br />
Đặt thêm các câu hỏi gợi mở thu<br />
2,34<br />
0,73<br />
11,1<br />
47,9<br />
36,8<br />
4,3<br />
được nhiều thông tin phản hồi từ<br />
phía sinh viên<br />
Sử dụng các câu hỏi để đánh giá<br />
hiệu quả các khâu của quá trình<br />
2,26<br />
0,79<br />
15,4<br />
49,6<br />
28,2<br />
6,8<br />
lên lớp (Vào bài, giảng bài mới,<br />
củng cố)<br />
Dành khoảng thời gian nhất định<br />
2,22<br />
0,71<br />
16,2<br />
46,2<br />
36,8<br />
0,9<br />
cho sinh viên có thể suy nghĩ về<br />
câu trả lời<br />
Hướng dẫn sinh viên cách đặt các<br />
loại câu hỏi để tranh luận, tranh<br />
2,17<br />
0,70<br />
18<br />
47<br />
35<br />
0<br />
biện với thầy cô và bạn bè<br />
Trung bình<br />
2,31<br />
0,7<br />
13,0<br />
45,7<br />
37,6<br />
3,5<br />
<br />
* Hiệu quả kĩ năng đặt và sử dụng câu hỏi của giảng viên<br />
Kết quả Bảng 3 cho thấy trong cách nhìn của sinh viên, hiệu quả các câu hỏi giảng viên<br />
đưa ra đạt mức trung bình chiếm tỉ lệ cao nhất (77,2%); tỉ lệ đánh giá hiệu quả đạt mức cao chiếm<br />
8,5%; mức thấp chiếm 14,3%. Kết quả chỉ ra rằng giảng viên cần đầu tư hơn về chất lượng câu hỏi<br />
đưa ra trong quá trình dạy học trên lớp. Phỏng vấn sinh viên, các em cho rằng giảng viên đưa ra<br />
câu hỏi rất ít trong tiết dạy. Và có những câu hỏi khó, sinh viên chưa kịp trả lời giảng viên đã trả<br />
lời hộ. Lớp học diễn ra một chiều, ít có sự tương tác giữa người dạy và người học. Có những câu<br />
hỏi, giảng viên hỏi chỉ để chuyển ý.<br />
18<br />
<br />