intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng quy trình giải trình tự xác định đột biến điểm của gen dystrophin ở bệnh nhân mắc bệnh loạn dưỡng cơ duchenne

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

80
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu nhằm xây dựng quy trình giải trình tự xác định đột biến điểm của gen dystrophin ở bệnh nhân mắc bệnh loạn dưỡng cơ duchenne. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết của đề tài nghiên cứu này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng quy trình giải trình tự xác định đột biến điểm của gen dystrophin ở bệnh nhân mắc bệnh loạn dưỡng cơ duchenne

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> XÂY DỰNG QUY TRÌNH GIẢI TRÌNH TỰ XÁC ĐỊNH  <br /> ĐỘT BIẾN ĐIỂM CỦA GEN DYSTROPHIN  <br /> Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH LOẠN DƯỠNG CƠ DUCHENNE <br /> Nguyễn Thị Băng Sương* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Đặt vấn đề: Loạn dưỡng cơ Duchenne (DMD: Duchenne muscular dystrophy) là bệnh di truyền lặn liên <br /> kết giới tính X, gây nên bởi đột biến gen dystrophin. Dạng đột biến phổ biến nhất là đột biến xóa đoạn gen, chiếm <br /> tỷ lệ 60‐65%. Đột biến điểm đứng thứ hai về mức độ thường gặp, chiếm 20‐30%. Đột biến lặp đoạn, khoảng 10‐<br /> 15%. Việc phát hiện đột biến điểm chưa được thực hiện rộng rãi tại Việt Nam do khó khăn trong việc xây dựng <br /> quy trình chẩn đoán. <br /> Mục tiêu: Xây dựng quy trình giải trình tự phát hiện đột biến điểm của gen dystrophin <br /> Đối  tượng  và  phương  pháp  nghiên  cứu:  Hai gia đình bệnh nhân mắc bệnh DMD, hai bệnh nhân này <br /> được  phân  tích  gen  dystrophin  bằng  kỹ  thuật  MLPA  nhưng  không  có  đột  biến  mất  đoạn  và  lặp  đoạn  gen <br /> dystrophin.  Ly  trích  DNA  của  hai  bệnh  nhân  cùng  hai  người  mẹ,  tiến  hành  giải  trình  tự  trực  tiếp  gen <br /> dystrophin để phát hiện đột biến điểm. <br /> Kết quả: Một bệnh nhân bị đột biến tại vị trí p.E2468X, một bệnh nhân đột biến dạng p.N2414fr*X2425. <br /> Kết luận: Xây dựng thành công quy trình giải trình tự để xác định đột biến điểm của gen dystrophin, đây <br /> là tiền đề giúp ứng dụng xác định bản đồ đột biến gen dystrophin trên các bệnh nhân loạn dưỡng cơ Duchenne <br /> tại Việt Nam. <br /> Từ khóa: DMD, loạn dưỡng cơ Duchenne, dystrophin, đột biến điểm <br /> <br /> ABSTRACT <br /> ESTABLISH SEQUENCING PROCEDURE TO IDENTIFY DYSTROPHIN GENE POINT MUTATION  <br /> CAUSING DUCHENE MUSCULAR DYSTROPHY <br /> Nguyen Thi Bang Suong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 508 ‐ 513 <br /> Introduction:  Duchenne  muscular  dystrophy (DMD)  is  a  recessive X‐linked form  of muscular  dystrophy <br /> caused by mutations on dystrophin gene. DMD disease results in muscle degeneration and eventual death. The <br /> most common dyptrosin gene mutation is deletion, accounting for 60‐65%. Point mutation is the second common <br /> mutation which accounting for 20‐30%. Duplication attributes about 10‐15% mutations. The detection of point <br /> mutations has not been widely applied in Vietnam because of difficulties in establishing diagnostic procedures. <br /> Objective: Establish diagnosis procedure to identify point mutations on dystrophin gene.  <br /> Patients and Methods: Two DMD patients whosedystrophin genes were analyzed by MLPA method but <br /> no  deletion  or  duplication  mutants  were  identified.  The  DNA  of  these  two  patients  and  their  mothers  were <br /> sequenced to found point mutants.  <br /> Results: One patient carries p.E2468X mutant, the other patient have p.N2414fr*X2425 mutant. <br /> Conclusion: Successfully establishing sequencing procedure to diagnose point mutations of the dystrophin <br /> gene, which is the premise for mapping mutations in dystrophin gene of Duchenne Vietnam patients.  <br /> Keywords: DMD, Duchenne muscular dystrophy, dystrophin gene, point mutation.  <br /> * Bộ môn Hóa sinh, Trung Tâm Y Sinh Học Phân Tử, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh <br /> Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn thị Băng Sương, ĐT: 0914007038 Email: suongnguyenmd@gmail.com <br /> <br /> 508<br /> <br /> Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Loạn  dưỡng  cơ  Duchenne  (DMD: <br /> Duchenne  muscular  dystrophy)  là  bệnh  lý  cơ <br /> do  di  truyền  với  tần  suất  bệnh  vào  khoảng <br /> 1/3500  trẻ  trai.  Đây  là  bệnh  di  truyền  lặn  liên <br /> kết  giới  tính,  gây  nên  bởi  đột  biến  gen <br /> dystrophin. Gen này nằm trên nhiễm sắc thể X <br /> ở  locus  Xp21,  gồm  79  exon  với  7  promoter <br /> khác  nhau.  Gen  dystrophin  sao  mã  ra  mRNA <br /> 14kb và tổng hợp sản phẩm protein tương ứng <br /> là  dystrophin.  Đột  biến  gen  làm  ảnh  hưởng <br /> đến  quá  trình  tổng  hợp  protein  dystrophin, <br /> cấu  trúc  protein  thay  đổi  và  mất  chức  năng <br /> bảo  vệ  tế  bào  cơ,  do  vậy  tế  bào  cơ  của  bệnh <br /> nhân  bị  tổn  thương(9).  Triệu  chứng  điển  hình <br /> của bệnh DMD là yếu cơ đối xứng gốc chi, teo <br /> cơ tiến triển và bệnh nhân thường tử vong do <br /> suy  hô  hấp.  Bên  cạnh  đó  nồng  độ  enzyme <br /> creatine  kinase  tăng  cao  do  tế  bào  cơ  bị  thoái <br /> hóa.  Theo  các  nhà  nghiên  cứu,  dạng  đột  biến <br /> phổ  biến  nhất  xảy  ra  trên  gen  dystrophin  là <br /> đột biến xóa đoạn gen, chiếm tỷ lệ 60‐65%. Đột <br /> biến  điểm  đứng  thứ  hai  về  mức  độ  thường <br /> gặp, chiếm 20‐30%. Đột biến lặp đoạn, khoảng <br /> 10‐15%(9,11).  Hiện  nay  có  nhiều  phương  pháp <br /> giúp  chẩn  đoán  đột  biến  mất  đoạn  gen <br /> dystrophin  như  kỹ  thuật  multiplex  PCR <br /> (polymerase  chain  reaction),  RT‐PCR  (reverse <br /> transcriptase  PCR),  MLPA  (multiplex  ligation <br /> probe  amplification),...Trong  đó,  kỹ  thuật <br /> MLPA  được  đánh  giá  cao  khi  ứng  dụng  để <br /> chẩn đoán đột biến mất đoạn và lặp đoạn gen <br /> dystrophin. Ở Việt Nam, đã có nhiều tác giả sử <br /> dụng kỹ thuật multiplex PCR và MLPA để xác <br /> định  đột  biến  mất  đoạn  gen  gây  bệnh  loạn <br /> dưỡng cơ Duchenne(4, 5).  <br /> <br /> Để  phát  hiện  đột  biến  điểm  của  gen <br /> dystrophin,  kỹ  thuật  giải  trình  tự  thường <br /> được sử dụng và có hiệu quả cao(3). Tại Việt <br /> Nam, việc chẩn đoán đột biến điểm của gen <br /> dystrophin  gặp  nhiều  khó  khăn  do  kích <br /> thước gen khá lớn (gồm 79 exon), vì vậy đa <br /> số  phòng  xét  nghiệm  Sinh  học  phân  tử <br /> <br /> Nhi Khoa<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> không  xây  dựng  quy  trình  chẩn  đoán  này. <br /> Tuy  nhiên,  dạng  đột  biến  điểm  chiếm  tỷ  lệ <br /> 20‐30%  ở  bệnh  nhân  Duchenne  nên  việc <br /> chẩn đoán chính xác dạng và vị trí đột biến <br /> của  gen  dystrophin  ở  bệnh  nhân  DMD  là <br /> điều  rất  cần  thiết,  từ  đó  có  thể  giúp  chẩn <br /> đoán  người  lành  mang  gen  và  chẩn  đoán <br /> trước  sinh  cho  thai  nhi.  Bên  cạnh  đó  nếu <br /> không xây dựng quy trình xác định đột biến <br /> điểm chúng ta sẽ không xác định được bản <br /> đồ  đột  biến  gen  dystrophin  trên  các  bệnh <br /> nhân DMD Việt Nam. Xuất phát từ thực tiễn <br /> đó chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục <br /> tiêu: “Xây dựng kỹ thuật giải trình tự xác định <br /> đột biến điểm của gen dystrophin”. <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> Gồm 2 bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh <br /> loạn dưỡng cơ Duchenne trên lâm sàng với các <br /> triệu chứng sau: Yếu cơ tiến triển nặng dần, dấu <br /> hiệu  giả  phì  đại  cẳng  chân,  khó  leo  cầu  thang, <br /> dấu  hiệu  Gower  dương  tính.  Định  lượng  CK <br /> huyết thanh tăng cao (tăng ít nhất 40 lần so bình <br /> thường), xét nghiệm đo điện cơ đồ có biểu hiện <br /> bệnh lý Duchenne. <br /> Hai  bệnh  nhân  này  đã  được  phân  tích  gen <br /> dystrophin  bằng  kỹ  thuật  MLPA  nhưng  không <br /> phát  hiện  được  đột  biến  mất  đoạn  và  lặp  đoạn <br /> gen dystrophin. <br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu <br /> ‐ Thiết kế nghiên cứu: mô tả loạt ca <br /> ‐ Các kỹ thuật thực hiện: <br /> <br /> Ly trích DNA từ máu ngoại vi <br /> Lấy 2 ml máu tĩnh mạch của các bệnh nhân <br /> và mẹ bệnh nhân cho vào ống nghiệm có  chứa <br /> chất  chống  đông  EDTA.  Sau  đó  tiến  hành  ly <br /> trích DNA từ tế bào bạch cầu máu ngoại vi theo <br /> quy trình của kit QiAgen. <br /> Tiến hành phản ứng PCR <br /> Tiến  hành  khuếch  đại  toàn  bộ  gen <br /> dystrophin  bằng  các  cặp  mồi  đặc  hiệu,  các  cặp <br /> mồi  được  chúng  tôi  thiết  kế  bằng  phần  mềm <br /> <br /> 509<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> LightScanner  Primer  Design.  Các  mồi  được <br /> kiểm  tra  nhiệt  độ  bắt  cặp,  không  có  các  SNP <br /> (single  nucleotide  polymorphism),  không  tạo <br /> cấu trúc hairpin và dimer. <br /> Điện di sản phẩm PCR trên agarose 1,5% để <br /> kiểm tra kết quả của phản ứng khuếch đại: Phản <br /> ứng  PCR  được  tối  ưu  hóa  về  thành  phần  phản <br /> ứng, chu kỳ luân nhiệt sao cho sản phẩm điện di <br /> chỉ xuất hiện 1 băng ứng với kích thước của sản <br /> phẩm  khuếch  đại.  Băng  điện  di  rõ,  có  bờ  đều, <br /> sắc gọn, không có băng phụ. <br /> <br /> ‐ Tinh sạch sản phẩm PCR: sử dụng kit của <br /> hãng QiAgen  <br /> ‐  Thực  hiện  phản  ứng  cycle  sequencing  với <br /> BigDye  version  3.1  của  công  ty  Applied <br /> Biosystems, theo 2 chiều xuôi và ngược: <br /> ‐ Đọc trình tự DNA bằng máy sequencer ABI <br /> PRISMR 3500. <br /> ‐ Phân tích kết quả, so sánh trình tự chuẩn từ <br /> NCBI  Blast  server  để  chẩn  đoán  tình  trạng  đột <br /> biến  của  các  exon,  trình  tự  chuẩn  của  gen <br /> dystrophin mang accession number NG_012232. <br /> <br /> Giải trình tự gen dystrophin <br /> KẾT QUẢ <br /> <br /> Kết quả của gia đình bệnh nhân DMD 28 <br /> Kết quả giải trình tự của bệnh nhân DMD 28 <br /> <br /> GenBank<br /> <br /> BN MD 28<br /> <br />  <br /> Hình 1: Kết quả giải trình tự exon 51 của bệnh nhân DMD_28 <br /> glutamin) thành TAG là codon kết thúc, làm quá <br /> Nhận  xét:  Tại  vị  trí  c.7402,  nucleotid  của <br /> trình  tổng  hợp  protein  dystrophin  bị  kết  thúc <br /> genbank  là  G,  trong  khi  đó  của  bệnh  nhân  là <br /> sớm.  Đột  biến  được  ký  hiệu  là  p.E2468X  và  đã <br /> nucleotid  T.  Đột  biến  làm  thay  đổi  codon  2468 <br /> được Hwa công bố vào năm 2008(6). <br /> bình  thường  là  GAG  (mã  hóa  cho  acid  amin <br /> <br /> Kết quả giải trình tự của mẹ bệnh nhân DMD 28 <br /> <br /> GenBank<br /> <br /> Mẹ BN DMD 28<br /> <br />  <br /> Hình 2: Kết quả phân tích exon 51 của mẹ bệnh nhân <br /> <br /> 510<br /> <br /> Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> Nhận xét: Kết quả của mẹ bệnh nhân DMD <br /> 28 cho thấy, tại vị trí c.7402 mà bệnh nhân bị đột <br /> biến, chúng ta thấy xuất hiện sóng đôi, trong đó <br /> 1  đỉnh  tương  ứng  với  nucleotid  G  (giống <br /> genbank) và 1 đỉnh nucleotid T (giống kết quả bị <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> đột biến ở bệnh nhân). Điều này chứng tỏ người <br /> mẹ bị đột biến dị hợp tử tại c.7402G>T, và người <br /> mẹ đã truyền allele bị bệnh cho con trai là bệnh <br /> nhân DMD 28. <br /> <br /> Kết quả của gia đình bệnh nhân DMD 45 <br /> <br /> GenBank<br /> <br /> BN DMD_45<br /> <br /> Mẹ DMD_45<br /> <br /> Hình 3: Kết quả phân tích exon 50 của bệnh nhân DMD 45 và người mẹ <br /> khẳng định, đột biến chủ yếu của gen là đột biến <br /> Nhận xét: <br /> xóa <br /> đoạn  gen,  chiếm  tỷ  lệ  60‐65%,  đột  biến  lặp <br /> ‐  Đối  với  mẫu  bệnh  nhân:  Vị  trí  c.7241  và <br /> đoạn chiếm khoảng 10‐15%, phần còn lại là đột <br /> c.7242 của genbank lần lượt là 2 nucleotid A và <br /> biến  điểm,  đột  biến  nhỏ  hoặc  đột  biến  tại  vị  trí <br /> C,  tuy  nhiên  ở  bệnh  nhân  không  xuất  hiện  2 <br /> cắt <br /> nối  intron‐exon(9).  Do  tần  suất  phân  bố  kiểu <br /> nucleotid  này.  Ngoài  ra,  nucleotid  vị  trí  c.7243 <br /> đột  biến  như  vậy  nên  quy  trình  chẩn  đoán  đột <br /> bình thường là C bị thay đổi thành T. Đột biến <br /> biến  gen  dystrophin  được  bắt  đầu  bằng  việc <br /> này làm xuất hiện codon kết thúc tại codon 2425. <br /> chẩn đoán đột biến mất đoạn, có nhiều phương <br /> Đột biến có ký hiệu là p.N2414fr*X2425. <br /> pháp để phát hiện kiểu đột biến này, năm 2010 <br /> ‐ Đối với mẹ bệnh nhân: tại vị trí c.7243 bắt <br /> Madania đã phối hợp 2 phương pháp multiplex <br /> đầu  xuất  hiện  sóng  đôi,  phân  tích  trình  tự  các <br /> PCR  và  real  time  PCR  để  chẩn  đoán  đột  biến <br /> đỉnh  chúng  ta  nhận  thấy  mẹ  bệnh  nhân  có  1 <br /> mất  đoạn  gen  dystrophin(8).  Bên  cạnh  đó  các <br /> allele bình thường (trình tự giống genbank) và 1 <br /> nghiên  cứu  cho  thấy  kỹ  thuật  MLPA  có  rất <br /> allele bị đột biến (có trình tự giống bệnh nhân). <br /> nhiều ưu điểm trong nghiên cứu bệnh DMD, vì <br /> BÀN LUẬN <br /> ngoài việc phát hiện đột biến mất đoạn, nó còn <br /> giúp phát hiện các đột biến lặp đoạn gen(5,2). Một <br /> Loạn dưỡng cơ Duchenne là bệnh di truyền <br /> trong những trở ngại lớn của việc chẩn đoán di <br /> liên  kết  với  nhiễm  sắc  thể  giới  tính  X,  do  đột <br /> truyền  bệnh  DMD  là  việc  phân  tích  phát  hiện <br /> biến gen Dystrophin nằm trên nhiễm sắc thể giới <br /> đột biến điểm, đây là nguyên nhân thường gặp <br /> tính X, do vậy bệnh  thường  biểu  hiện  ở  trẻ  em <br /> thứ  hai  sau  đột  biến  mất  đoạn.  Do  gen <br /> và  hiếm  khi  gặp  ở  trẻ  nữ.  Các  nhà  nghiên  cứu <br /> <br /> Nhi Khoa<br /> <br /> 511<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> dystrophin  là  một  gen  lớn,  cấu  trúc  gồm  79 <br /> exon, trong khi đó đột biến điểm lại rải rác khắp <br /> chiều dài gen chứ không tập trung tại các vùng <br /> trọng  điểm  như  đột  biến  mất  đoạn  nên  việc <br /> phân tích rất tốn kém về  công  sức  và  thời  gian <br /> cũng  như  kinh  phí.  Năm  2006,  Hamed  cùng <br /> cộng sự đã xây dựng quy trình RT‐PCR để giải <br /> trình  tự  cDNA  của  gen  dystrophin.  Hamed  đã <br /> thiết  kế  76  đoạn  mồi  gắn  đặc  hiệu  với  phân  tử <br /> cDNA, sau đó tác giả khuếch đại cDNA và giải <br /> trình  tự  toàn  bộ  vùng  gen  mã  hóa  của <br /> dystrophin. Nghiên cứu này đã phát hiện được <br /> 10 bệnh nhân bị đột biến điểm và đột biến nhỏ(3). <br /> Ở  Việt  Nam,  vào  năm  2009,  nhóm  nghiên  cứu <br /> chúng  tôi  đã  ứng  dụng  kỹ  thuật  RT‐PCR  trong <br /> chẩn  đoán  đột  biến  mất  đoạn  của  gen <br /> dystrophin(10).  Tuy  nhiên  kỹ  thuật  RT‐PCR  đòi <br /> hỏi nhiều công đoạn, kinh nghiệm cũng như kỹ <br /> năng cao của người phân tích, do vậy tỷ lệ thành <br /> công của kỹ thuật không cao. Trong nghiên cứu <br /> của  Hamed,  tác  giả  phân  tích  15  bệnh  nhân <br /> DMD không có đột biến mất đoạn và lặp đoạn <br /> gen  dystrophin,  nhưng  chỉ  phát  hiện  10  bệnh <br /> nhân  bị  đột  biến  điểm,  trong  khi  đó  theo  lý <br /> thuyết thì hầu hết các bệnh nhân này phải có đột <br /> biến  điểm.  Trong  nghiên  cứu  trước  của  chúng <br /> tôi,  kỹ  thuật  RT‐PCR  chỉ  phát  hiện  được  50% <br /> bệnh nhân DMD bị đột biến mất đoạn(10), trong <br /> khi  đó  nếu  ứng  dụng  kỹ  thuật  MLPA  thì  tỷ  lệ <br /> này là 63,6%(2). Do các hạn chế đó nên một số tác <br /> giả vẫn sử dụng kỹ thuật giải trình tự trên DNA <br /> của  vùng  gen  dystrophin(12),  trong  nghiên  cứu <br /> này chúng tôi cũng ứng dụng giải trình tự trực <br /> tiếp trên phân tử DNA.  <br /> Đối  với  gia  đình  bệnh  nhân  thứ  nhất,  khi <br /> phân tích kết quả giải trình tự exon 51 của bệnh <br /> nhân  DMD  28  chúng  ta  nhận  thấy  tại  vị  trí <br /> c.7402, nucleotid của genbank là G, trong khi đó <br /> của bệnh nhân là nucleotid T. Đột biến làm thay <br /> đổi  codon  2468  bình  thường  là  GAG  (mã  hóa <br /> cho  acid  amin  glutamin)  thành  TAG  là  codon <br /> kết  thúc,  làm  quá  trình  tổng  hợp  protein <br /> dystrophin  bị  kết  thúc  sớm.  Việc  tổng  hợp <br /> protein  dystrophin  bị  cắt  cụt  sẽ  làm  mất  chức <br /> năng  của  protein,  làm  protein  không  bảo  vệ <br /> <br /> 512<br /> <br /> được tế bào cơ, do vậy tế bào cơ bị thoái hóa dần <br /> và gây nên bệnh lý DMD. Kiểm tra kết quả trên <br /> NCBI chúng tôi xác định đột biến này đã được <br /> Hwa  công  bố  vào  năm  2008  trên  tạp  chí  J <br /> Formos  Med  Assoc(6).  Đột  biến  được  ký  hiệu  là <br /> p.E2468X. Một đặc điểm của bệnh nhân DMD là <br /> 2/3 bệnh nhân nhận gen bệnh từ người mẹ mang <br /> kiểu gen dị hợp tử, 1/3 bệnh nhân là do đột biến <br /> mới phát sinh. Do vậy khi phát hiện đột biến ở <br /> bệnh nhân chúng ta phải kiểm tra kiểu gen của <br /> người  mẹ  xem  có  mang  gen  bệnh  hay  không, <br /> điều này rất quan trọng trong tư vấn di truyền <br /> cũng như giúp chẩn đoán trước sinh bệnh DMD. <br /> Kết quả của mẹ bệnh nhân DMD 28 cho thấy, tại <br /> vị trí c.7402 mà bệnh nhân bị đột biến xuất hiện <br /> sóng  đôi,  trong  đó  1  đỉnh  tương  ứng  với <br /> nucleotid G (giống genbank) và 1 đỉnh nucleotid <br /> T (giống kết quả bị đột biến ở bệnh nhân).Điều <br /> này chứng tỏ người mẹ bị đột biến dị hợp tử tại <br /> c.7402G>T, và người mẹ đã truyền allele bị bệnh <br /> cho con trai là bệnh nhân DMD 28. <br /> Đối với gia đình thứ hai, kết quả giải trình tự <br /> của bệnh nhân DMD 45 cho thấy ở vị trí c.7241 <br /> và c.7242 của genbank lần lượt là 2 nucleotid A <br /> và C, tuy nhiên ở bệnh nhân không xuất hiện 2 <br /> nucleotid  này.  Ngoài  ra,  nucleotid  vị  trí  c.7243 <br /> bình thường là C bị thay đổi thành T. Đột biến ở <br /> bệnh  nhân  làm  thay  đổi  codon  2414  AAC  (mã <br /> hóa  cho  acid  amin  asparagine)  thành  ATG  (mã <br /> hóa  cho  acid  amin  methionine),  đồng  thời  gây <br /> lệch  toàn  bộ  khung  đọc  kể  từ  codon  2414  đến <br /> codon 2425, và codon 2425 là TAG, đây là codon <br /> kết  thúc.  Như  vậy  sự  tổng  hợp  protein <br /> dystrophin  bị  cắt  cụt,  làm  thay  đổi  cấu  trúc  và <br /> chức  năng  của  protein  dystrophin  và  gây  bệnh <br /> DMD.  Dạng  đột  biến  này  được  ký  hiệu  là <br /> p.N2414fr*X2425.  Đối  với  mẹ  bệnh  nhân:  tại  vị <br /> trí c.7243 bắt đầu xuất hiện sóng đôi, phân tích <br /> trình  tự  các  đỉnh  chúng  ta  nhận  thấy  mẹ  bệnh <br /> nhân  có  1  allele  bình  thường  (trình  tự  giống <br /> genbank)  và  1  allele  bị  đột  biến  (có  trình  tự <br /> giống  bệnh  nhân).  Như  vậy  chúng  ta  kết  luận <br /> người  mẹ  mang  kiểu  gen  dị  hợp  tử  và  truyền <br /> gen bệnh cho con trai. <br /> <br /> Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2