intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương ôn thi hết học phần - Môn: Ngoại khoa thú y thực hành

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:51

74
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương ôn tập Ngoại khoa thú y thực hành tổng hợp những nội dung trọng tâm của học phần Ngoại khoa thú y thực hành. Tông qua đề cương, người học có thể tổng quan và củng cố lại các phần kiến thức đã học. Mời các bạn cùng tham khảo để biết thêm các nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương ôn thi hết học phần - Môn: Ngoại khoa thú y thực hành

  1. Faculty of Veterinary Medicine 5/31/2014 ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HẾT HỌC PHẦN MÔN: Ngoại Khoa Thú Y Thực Hành Học kỳ II năm học 2013-2014 Thach Van Manh Website: sites.google.com/site/thachvanmanh Mail: thachvanmanh@gmail.com Tel : +84983912823
  2. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 Phần I: Kỹ thuật cơ bản trong ngoại khoa thú y thực hành Chương 1 Cố định động vật - Cố định gia súc là việc làm cần thiết, trước tiên của một caphẫu thuật. Cố định gia súc giúp ngăn ngừa việc chống cự, tấn công của gia súc; tránh được những tai nạn đáng tiếc cho cả người và gia súc; tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn được thời gian thực hiện, giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và tránh việc mất máu nhiều khi phẫu thuật.  Một số lưu ý khi cố định gia súc - Khi tiếp xúc với gia súc phải có thái độ ôn hòa, thân mật nhất là đối với loài có tính hưng ph ấn cao. Cần tránh có những động tác thô bạo, thái độ nóng nảy làm cho gia súc sợ hãi gây khó khăn cho việc cố định. - Trước khi thực hiện cố địnhgia súc cần kiểm tra kỹ lưỡng dụng cụ cố định (dây thừng, rọ mõn, giá cố định…). - Nơi cố định phải được dọn vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt không có vật cứng (gạch đá, đinh thép, dây thép gai, mảnh sành,...) nhằm tránh những tổn thương cho gia súc khi cố định. - Khigia súc ăn quá no, cần tránh việc vật ngã một cách thô bạo. Đối với gia súc mang thaicần thận trọng khi cố định. - Các thao tác cố định phải được tiến hành nhanh, chính xác. Các nút buộc cần đơn giản mà chắc chắn, dễ giải thoátcho vật nuôi khi có các tai biến.Trong phẫu thuật ngoại khoa khi cố định cần sử dụng các nút thắt “sống”để dễ dàng giải thoát gia súc khi có tai biến xảy ra. - Tùy theo vị trí phẫu thuật, loài gia súc mà có các cách cố định khác nhau. Tư thế cố định cần thuận lợi cho người thực hiện phẫu thuật. 1. Phương pháp cố định trâu, bò a. Xoắn tai - Để xoắn tai người ta dùng dây xoắn tai. Dây xoắn tailà nguyên nhân gây đau đớn cho bò, làm lệch sự chú ý khi có tác nhân gây đau đớn ở những phần khác trên cơ thể. Đây là phương pháp có hiệu quả nhưng cần chú ý tránh gây hư hại cho lớp sụn của tai. 1
  3. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 b. Cố định một chân trước - Một vòng dây được buộc vào cổ chân, đầu còn lại vòng qua u vai, đưa ra phía trướcvà đượcgiữ chặt. Nó sẽđược bỏ ra khi bò bắt đầu ngã. c. Cố định một chân sau - Cố định một chân sau của trâu, bò khó khăn hơn nhiều so với cố định chân trước vì trâu, bò rất khỏe. Muốn thực hiện được, chúng ta phải dùng dây thừng buộc vào đốt ngón chân của chúng rồikéo lên. Đầu dây thừng tự do vắt qua người con vật hoặc thanh dọc của gióng cố định. d. Cố định đứng trong giá - Gía cố định được làm với 4 cột trụ chôn chặt xuống đấthoặc có bộ giá bằng sắt hay xi măng cốt thép.Kết nối giữa bốn trụ là các gióng dọc và ngang trải đều 2 tầng trên và dưới. Có các dây thừng và chão để buộc giữ; ghìm đầu, đỡ bụng, chằng ngang lưng, khóa hai chân sau hoăc cả bốn chân.Cố định trâu, bò đứng trong giá bốn trụ dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp có thời gian kéo dài. e. Vật bò - Vật bò có thể dùng hai cách thông dụng sau đây: - Cách thứ nhất:dùng một sợi dây thừng bền chắc, dài 5-6 m. Một đầu dây buộc cố định vào hai gốc sừng con vật. Đầu kia luồn thành hai vòng;một vòng quanh ngực, một vòng quanh bụng sao cho tạo thành hai vòng nút. Đoạn dây còn lại được kéo dọc thân con vật. Khi vật, một người vặn đầu con vật ở tư thế: một tay ghìm sừng xuống, một tay cầm mõm hất lên ; một người cầm đuôi kéo về phía định cho con vật ngã; một số người khác kéo đầu dây tự do. Nếu có đủ người thì cả 2 đầu dây được thả tự do, chia số người ra làm 2 tốp kéo về 2 phía ngượcchiều nhau, dọc thân con vật. - Phải có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa những người tham gia. Con vật nằm xuống, nhanhchóng ghìm sừng, đè đầu và cột 4 chân lại. Đây là động tác quan trọng nhất khi vật bò; nếu để đầu nó cất lên thì con vật lập tức đứng dậy. 2
  4. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 f. Vật trâu - Dùng dây thừng bền chắc, luồn thành các nút số 8 ở hai chân trước và hai chân sau. - Buộc sao cho các nút thắt lại được khi kéo mà không bị tuột ra (đoạn dây tự do phải nằm phía dưới vòng nút). Khi vật, một người khỏe ghìm giữ đầu; một người kéo đuôi; số còn lại chia làm 2 tốp kéo cùng về 1 phía. Khi kéo, các vòng của nút số 8 thiết chặt dần; hai chân phải, hai chân trái sát lại gần nhau;con vật mất khả năng trụ và đổ vật xuống. Tương tự như vật bò, nhanh chóng ghìm đầu, dùng dây thừng buộc chặt 4 chân. Cách vật này là thô bạo, xong trâu quá khỏe, chưa tìm được cách vật nào tốt hơn. 2. Phương pháp cố định ngựa a. Xoắn mũi - Phương pháp này dùng để cố định ngựa ở tư thế đứng.Phương pháp này chỉ nên áp dụng trong các trường hợp thăm khám,điều trịmang tính chất đơn giản. 3
  5. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 - Nguyên tắc:lợi dụng ngựa có môi trên với gương mũi dài và mỏng, tập trung nhiều đầu mút dây thần kinh. Khi xoắn mũi, con vật đau đớn và tập trung sự chú ý vào vùng mũi mà hoàn toàn không để ý tới người khác đang ở phía sau thực hiện thao tác khám bệnh hay điều trị. - Phương pháp: một tay giữ cương, một tay nắm lấy mũi con vật xoay nửa vòng. Xoay sao cho vừa đủsự thu hút tập trung của con vật, không nên xoay quá mạnh.Nếu tay không nắm chặt được thì dùng một vòng dây vòng vào vùng môi trên, lồng vào đó một chiếc que sau đó cầm que xoắn dây lại hoặc dùng dụng cụ xoắn mũi chuyên dụng. Chú ý những thao tác xo ắn mũi khi thực hiện không gây ra sự hoảng loạn và ít đau đớn.Nếu đau đớn quá con vật sẽ hoảng loạn, giẫy giụa nhằm thoát khỏi sự cố định. b. Giữ dây cương hàm thiếc - Để điều khiển ngựa, người ta dùng dây cương và hàm thiếc. Hàm thiếc làm bằng kim loại, cho vào miệng ngựa để đè lưỡi xuống nhằm tránh cắn vào lưỡi khi làm việc, vận động mạnh. Dây thừng buộc vào hàm thiếc để điều khiển ngựa gọi là dây cương. Khi muốn khám bệnh, tiêm hay cho uống thuốc …chỉ cần giữ dây cương tại nơi tiếp xúc với hàm thiếc, con vật tạm thời đứng yên tại chỗ (bốn chân vẫn rậm rịch) nếu việc làm của chúng ta không gây sợ hãi cho con vật. c. Cố định 2 chân sau - Phương pháp này được sử dụng để tránh trường hợp ngựa đá, ứng dụng trong các trường hợp khám bệnh hay phẫu thuật ở trực tràng hay âm đạo. - Trước hết buộc một vòng dây ở cổ, hai đầu của sợi dây đưa về phía sau và nằm ở giữa 2 chân trước. Sau đó buộc một vòng ở mỗi chân sau. Hoặc có thể sử dụng một vòng đeo cổ bằng vải để thay thế cho vòng dây và 2 vòng tròn nhượng để thay thế cho mối cột ở trên 2 khớp nhượng. 4
  6. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 d. Vật ngựa - Có nhiều phương pháp vật ngựa, thông thường hay sử dụng phương pháp sau: - Dùng 4 vòng cổ chân, đeo vào chân ngựa. Các vòng này được nối với nhau bằng sợi dây thừng chừng 5m. Một người nắm đuôi nhằm đỡ con vật khi ngã. - Kéo mạnh sợi dây , 4 chân ngựa gom lại gây mất thăng bằng làm ngựa ngã xuống. - Tiếp theo dùng dây buộc một đầu vào trên khớp nhượng của chân sau phía trên,phần còn lại luồn qua 2 chân trước,choàng qua vai bên kia và quấn 1 vòng vào cổ chân sau để nhấc lên. Phương pháp cố định này thường dùng để thiến ngựa. 3. Phương pháp cố định lợn - Khi thực hiện phẫu thuật ở những con nhỏ việc cố định rất đơn giản nhưng khi tiến hành ở những con vật lớn thường rất khó vì chúng béo lẳn và trơn. a. Cố định lợn để thiến, chích ngừa - Đối với lợn nhỏ có thể cố định bằng cách xách ngược hai chân sau lên, mặt bụng quay ra ngoài. Người cố định dùng hai đầu gối để kẹp phần dưới của lợnlại. Đây là cách đơn giản để tiêm chích cho lợn.Nếu để thiến lợn đực thì phần lưng của lợn quay ra phía ngoài và phần đầu của nó nằm giữa hai chân sau của người cố định. Túm lợn túm chân sau nhấc lên. Cố định bằng đầu gối tì vào gốc tai lợn, 2 tay còn lại giữ 2 chân lợn. 5
  7. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 b. Cách cố định để cho lợn uống thuốc - Người cố định nắm hai chân trước của lợn và để ở tư thế tựa mông trên mặt đất. - Dùng hai đầu gối kẹp vào hai bên vai để ghìm giữ lợn. c. Cố định lợn ở tư thế nằm ngửa - Phương pháp cố định này thường dùng trong trường hợp phẫu thuật vùng bụng. - Dùng một máng ăn, bên dưới được lót bằng bao bố, đặt lợn ở tư thế nằm ngửa, dùng dây để buộc hai chân trước và hai chân sau vào máng ăn. d. Phương pháp vật lợn - Vật lợn bằng tay: dùng tay luồn qua bụng lợn, nắm chân trước và chân sau cùng phía rồi kéo mạnh. - Vật lợn bằng dây:trước hết dùng một sợi dây buộc mõm, phần cuối sợi dây đưa ra phía sau rồi làm 1 vòng ở phía trên khớp nhượng của chân sau bên trái. Nắm phần cuối của sợi dây kéo mạnh về phía sau, con vậtsẽ mất thăng bằng và ngã xuống. - Dùng một sợi dây buộc mõm để tạm cố định lợn. - Vật lợnbằng dụng cụ tròng chân sau:đây là phương pháp tốt nhất để quật ngã và cố định lợn to. Dụng cụ này có thể đưa vào chân sau của lợnrất đơn giản và nhanh chóng. - Dùng một ống hình tròn, đường kính 3-4 cm, chiều dài 40 cm. Hai đầu ống gắn với 2 vòng kim loại đường kính khoảng 5cm. Hai vòng này được nối với hai sợi dây xích dài khoảng50-60cm. Đầu cuối của hai sợi dây xích nối với một vòng kim loại thứ 3. - Từ vòng thứ 3 này nối với sợi dây thừng chắc chắn. Trư ớc hết dùng dây để khớp mõm lại. Sau đó đưa dụng cụ tròng vào hai chân sau của lợn. Nắm sợi dây thừng kéo mạnh về phía sau. Lợn sẽ dễ dàng ngã xuống. - Nếu thực hiện những ca tiểu phẫu mà không gây đau đớn thái quá cho lợn, người ta chỉ cần sử dụng một sợi dây cột vào mõm lợn và kéo căng dây là được. 6
  8. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 4. Phương pháp cố định chó, mèo - Cố định chó:phải có rọ mõm và dây hay xích buộc cổ. Nếu không có rọ mõm phải dùng sợi dây mềm buộc lại. Để thăm khám con vật, sau khi đã cố định mõm chỉ cần giữ ngắn dây xíchcổ là được. - Cố định mèo: có thể dùng dây buộc mõm kết hợp với dùng vải mềm bó chặt tứ chi hay dùnggiá cố định chuyên dụng. - Giá này gồm hai tấm gỗ, mỗi bên cắt một lỗ thủng là một nửa vòng tròn, khi ghép lại được một lỗ thủng hình tròn. Hai tấm đó được chạy trên một thanh trượt. Đưa mèo vào giá, ép hai tấm gỗ sát nhau ở ngang nách con vật; sao cho đầu và hai chân con vật nằm ởphía trước tấm gỗ, một người cầm hai chân sau kéo lại. - Một số phòng mạch chó, mèo và thú cảnh ở các thành phố lớn thiết kế cũi bằng thép không gỉ. Sau khi đưa vật nuôi vào cũi, có dụng cụ ép con vật vào một phía, làm như thế rất tiện lợi và an toàn. 7
  9. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 Chương 2: Đề phòng nhiễm trùng vết mổ và tổ chức một ca phẫu thuật 1. Chuẩn bị địa điểm phẫu thuật a. Phòng mổ - Nếu phẫu thuật trong phòng thì trước khi phẫu thuật bật hệ thống đèn tử ngoại và duy trì trong 30 phút để tiêu diệt vi khuẩn trong phòng. b. Bãi mổ - Nếu không có phòng mổ thì tối thiểu chúng ta cũng phải có được một khu vực bằng phẳng, sạch sẽ, đủ rộng để tiến hành phẫu thuật gọi là bãi mổ. - Bãi mổ cần đáp ứng các yêu cầu sau: + Tuyệt đối không được sử dụng những nơi nghi nhiễm vi khuẩn có nha bào làm nơi phẫu thuật như nền chuồng trại trước đây đã có vật nuôi chết, nơi xử lý các ổ nhiễm trùng hay mổ khám xác chết, nơi chôn xác hay chất thải của các vật nuôi đã chết vì các bệnh nhiệt thán, uốn ván, ung khí thán… + Chọn nơi tương đối bằng phẳng và có diện tích đủ rộng để thực hiện phẫu thuật như một khoảng sân, một đám đất trống, một bãi cỏ… + Bãi mổ phải có đầy đủ ánh sáng, tránh được nắng, mưa, gió. + Trước khi phẫu thuật cần dọn sạch gạch, đá, cành cây, dây thép, đinh gai hay các vật cứng khác để tránh gây sát thương cho người và vật nuôi. + Để khử trùng và hạn chế cát, bụi bay lên, có thể phun lên mặt nền bằng một số dung dịch sát trùng như formalin 4%, cloramin T 0,5%, thuốc tím 0,1%... 2. Kiểm tra động vật phẫu thuật a. Kiểm tra chung - Trước tiên kiểm tra hoạt động của các hệ tuần hoàn, hô hấp đây là hai hệ nhất thiết phải kiểm tra trước khi phẫu thuật. Ngoài ra có thể kiểm tra các chức năng của gan, thận… Xác định được các quá trình bệnh lý trong cơ thể giúp ta đề phòng được các tai biến có thể xảy ra, liên quan đến việc: cố định, gây mê, gây tê và chính cuộc phẫu thuật đó. - Nếu hiện tại gia súc không đủ sức khoẻ để chịu đựng cuộc phẫu thuật thì phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt để tăng sức đề kháng rồi mới thực hiện phẫu thuật. - Kiểm tra xem gia súc có thai không, nếu có thì phải thận trọng trong phẫu thuật, không gây mê sâu. - Kiểm tra các ổ nhiễm trùng trên cơ thể. - Kiểm tra tình trạng vệ sinh chung của vật nuôi, phải tắm rửa toàn thân hay cục bộ cho vật nuôi phẫu thuật. Những chỗ có nhiều nếp nhăn, nếp gấp, khe, kẽ như cổ, yếm, nách, bẹn, bàn, ngón… cần được kỳ cọ, rửa sạch bằng bàn chải, xà phòng và nước sạch. 3. Xử lý vùng phẫu thuật trên cơ thể động vật a. Xử lý đối với da vùng phẫu thuật 8
  10. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 - Cắt, cạo lông vùng phẫu thuật, vùng lông cắt phải lớn hơn 2-3 lần vùng phẫu thuật. - Rửa sạch da vùng phẫu thuật bằng xà phòng và nước sạch. - Lau khô bằng vải gạc hay khăn sạch vô trùng - Sát trùng bằng cồn Iod 5%. Sát trùng hai lần, một lần trước lúc gây tê và một lần trước khi phẫu thuật. Cách sát trùng: Ðối với những phẫu thuật thực hiện ở vùng tổ chức lành thì sát trùng từ trong ra ngoài. Với vùng nhiễm trùng thì sát trùng ngược lại tức là từ ngoài vào trong. Ðối với vùng bàn ngón, sau khi đã rửa sạch thì ngâm vào dung dịch sát trùng 15 phút. - Dùng tấm choàng bằng vải, cao su có khoét lỗ đã xử lý vô trùng đắp lên vùng phẫu thuật để ngăn cách với các vùng xung quanh bảo vệ vùng phẫu thuật. b. Xử lý đối với niêm mạc vùng phẫu thuật Ðối với niêm mạc thì dùng thuốc sát trùng với nồng độ thấp hơn. - Với niêm mạc mắt, miệng, mũi rửa chúng bằng rivanol 0,1%, cresol 2%, còn da xung quanh nó bôi cồn iod 3%. - Thụt rửa âm đạo bằng dung dịch acid lactic 1%, rivanol 0,1%, cresol 2%, thuốc tím 0,1%, còn da xung quanh vùng âm hộ thì bôi cồn iod 3%. - Thụt rửa trực tràng bằng dung dịch thuốc tím 0,1%, cresol 2%, da xung quanh hậu môn bôi cồn iod 3%. 4. Tiệu trùng dụng cụ phẫu thuật a. Phương pháp luộc - Dùng nồi chuyên dụng hoặc gia dụng, đảm bảo sạch sẽ, vô trùng. - Nước dùng để luộc tốt nhất là nước cất, nếu không phải sử dụng nước mưa, nước lọc. - Khi tiệt trụng phải đun sôi nước 3 phút, sau đó cho dụng cụ phẫu thuật đã tháo từng chi tiết vào đun sôi thêm 30 phút. - Vớt ra cho vào khay vô trùng, phủ vải gạc vô trùng lên. Riêng dụng cụ bằng thủy tinh: tháo rời, bỏ vào nồi luộc khi nước còn lạnh.  Phương pháp này vừa đơn giản, dễ thực hiện, rẻ tiền lại cho hiệu quả tốt. b. Phương pháp hấp ướt thường - Có thể dùng phương pháp hấp hơi ở áp suất thường để xử lý dụng cụ, hình thức như đồ sôi. - Dùng xoong nhôm hay tráng men có thành đứng và cao, có nắp đậy kín. Đổ nước vào xoong, đạt 1/3 dung tích của nó, phía trên đặt khay đục lỗ đựng dụng cụ, đậy vung, đun sôi nước. Hơi nước sôi đi qua dụng cụ để phía trên, hiệu quả tiệt trùng tốt. - Thời gian xử lý kéo dài 30’ kể từ khi nước sôi. c. Phương pháp đốt bằng cồn Cho dụng cụ vào khay, đổ cồn vào rồi đốt trong vòng 5 phút.  Phương pháp này có ưu điểm là nhanh, tiệt trùng tốt nhưng chỉ tiến hành được với các dụng cụ không cháy và cũng làm cho dụng cụ chóng bị hư hỏng. d. Phương pháp hấp ướt cao áp 9
  11. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 Dùng nồi hấp cao áp autochlave. Ưu điểm của phương pháp này là có thể nâng nhiệt độ hấp lên trên 1000C, do dùng nhiệt độ cao từ hơi nước để tiệt trùng nên có thể tiệt trùng được cho hầu hết các dụng cụ, nguyên liệu dùng trong phẫu thuật. Nếu hấp ở áp xuất 1,5atm, nhiệt độ đạt tới 126,80C thì duy trì thời gian xử lý 30 phút, nếu ở 2atm, nhiệt độ đạt tới 132,90C thì duy trì thời gian xử lý 20 phút. e. Phương pháp sấy khô Dùng tủ sấy, tác nhân tiệt trùng là nhiệt độ cao từ không khí bị đốt nóng. Dùng để tiệt trùng các dụng cụ bằng thủy tinh, sành sứ, bông vải sợi, các dụng cụ có nguồn gốc nguyên liệu khác, trừ dụng cụ bằng nhựa mềm. Để tiệt trùng dụng cụ, duy trì ở nhiệt độ 1200C với thời gian là 30’. Chỉ đưa dụng cụ vào sấy khi chúng đã được rửa sạch, lau khô. f. Phương pháp là Hiện nay chúng ta hay sử dụng bàn là điện. Mặt bàn là đang hoạt động nóng tới 1500C, các vi sinh vật nằm dưới đó đều bị thiêu cháy. Người ta dùng bàn là để tiệt trùng một số dụng cụ có nguồn gốc nguyên liệu từ sợi bông tự nhiên (quần áo bảo hộ, mũ, khẩu trang, tấm choàng, vải gạc…). Khi sử dụng di chuyền bàn là trên khắp bề mặt của đồ vật vài lần. g. Phương pháp hơ lửa Một số dụng cụ to lớn kềnh càng như mặt bàn, khay, cưa… không tiệt trùng được bằng các phương pháp trên, chúng ta dùng biện pháp hơ lửa. Tẩm cồn trên 700C trên những cục bông hay vải có nguồn gốc là sợi bông tự nhiên rồi châm lửa đốt, ngọn lửa cháy bùng lên như ngọn đuốc, hơ ngọn lửa đó trên khắp bề mặt của vật cần xử lý. Tương tự như phương pháp là, cần hơ qua lại một số lần tại một vị trí nhất định mới đảm bảo khả năng tiệt trùng. h. Phương pháp ngâm trong dung dịch sát trùng Phương pháp này được áp dụng để xử lý các loại chỉ khâu tự tiêu (catgut). Chỉ tự tiêu có nguồn gốc nguyên liệu là protein động vật, vì thế các phương pháp trên không đáp ứng được. Người ta ngâm những cuộn chỉ tự tiêu trong dung dịch formalin 4% với thời gian là 72 giờ. 5. Xử lý tay người thực hiện phẫu thuật a. Tiêu độc tay người phẫu thuật - Cắt móng tay, dũa cho bằng - Rửa bằng nước xà phòng, tốt nhất là rửa tay dưới vòi nước chảy. - Ngâm tay trong cồn-amoniac 5%, cồn có tác dụng diệt khuẩn, amoniac làm trương nở các tế bào biểu bì trên da tay, làm cho thuốc sát trùng tác dụng tốt hơn. - Sát trùng bằng cồn 70 độ, không sát trùng bằng cồn 90 độ vì cồn 90 độ làm đông vón các phân tử protein trên lớp biểu bì tạo thành một lớp bảo vệ, chống lại không cho cồn, thuốc sát trùng ngấm vào sâu hơn, do đó sẽ làm giảm khả năng sát trùng. - Nếu có điều kiện thì đeo găng tay phẫu thuật. 10
  12. Thạch Văn Mạnh TYD-K55  Sau khi đã xử lý xong, phẫu thuật viên không được đụng chạm vào bất cứ một vật gì trước khi tiến hành phẫu thuật. 6. Hộ lý, chăm sóc động vật sau phẫu thuật - Vật nuôi sau phẫu thuật được nuôi nhốt riêng. Nơi nuôi nhốt phải đảm bảo vệ sinh tối thiểu và điều kiện sống thuận lợi. Mùa hè thoáng mát, mùa đông phải ấm áp, có chất độnchuồng hay lót ổ, tránh gió lùa. - Sau phẫu thuật vật nuôi phải được để ở nơi hoàn toàn yên tĩnh tránh những tiếng động mạnh, những hành động thô bạo làm vật nuôi sợ hãi. Khi vật nuôi giẫy đạp nhiều sẽ tăng nguy cơ chảy máu thứ phát, nhiễm trùng vết mổ. - Phẫu thuật có chỉ định gây mê phải có người theo dõi giúp đỡ con vật đến khi tỉnh hoàn toàn. Vật nuôi lớn nên cố định trong giá bốn trụ, có dụng cụ nâng đỡ; vật nuôi nhỏ nên để trong cũi, lồng. - Trợ tim bằng các loại thuốc camphoral 10%, cafein 20%, adrenalin 0,1%. - Kích thích hô hấp bằng cách cho thở dưỡng khí hay ngửi amoniac (tẩm amoniac vào bông rồi để cách mũi vật nuôi 5-10 cm). - Chống chảy máu trong: dùng vitamin K tiêm bắp, calci chloride hay calci gluconat. - Để tăng cường hồi phục sức khỏe, dùng các dung dịch truyền máu: glucose 5%, nước muối sinh lý, lactat ringer,…sử dụng các loại vitamin B1, B12, A,… - Cho ăn thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, dễ tiêu, chín. Nếu phẫu thuật có gây mê chỉ cho vật nuôi ăn khi tỉnh hẳn, chúng tự lấy và nuốt được thức ăn. Khi thực hiện phẫu thuật ở vùng bụng nên cho vật nuôi ăn từ từ, chia khẩu phần ăn ra từng phần. Chương 3: Vô cảm khi phẫu thuật 1. Gây mê a. Khái niệm - Gây mê là dùng thuốc đưa con vật vào tình trạng mất toàn bộ nhận thức, mất cảm giác đau, ức chế các phản xạ nội tạng, giãn cơ và cần ngủ. - Mê là sự mất cảm giác và ý thức tạo bởi các thuốc mê khác nhau, gồm bốn hợp thành là không đau, giãn cơ, mất ý thức và quên.  Mục đích - Làm cho con vật không đau trong quá trình phẫu thuật. - Làm cho con vật không giãy giụa trong khi tiến hành phẫu thuật:  Máu dễ cầm hơn, không ảnh hưởng tới vết thương của gia súc.  Người phẫu thuật yên tâm tiến hành công việc của mình, rút ngắn thời gian phẫu thuật. b. Phân loại 1. Căn cứ vào mức độ mê người ta chia ra: mê nông và mê sâu. 11
  13. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 - Mê nông: là dùng lượng thuốc mê ít hơn, thời gian mê diễn ra ngắn hơn (khoảng 30-45 phút), cho phép thực hiện những phẫu thuật nhỏ với thời gian tương đương. - Mê sâu: là dùng lượng thuốc mê nhiều hơn, thời gian mê kéo dài hơn (từ 90- 120 phút và lâu hơn nữa), đủ thời gian cho việc thực hiện các phẫu thuật phức tạp, mất nhiều thời gian. 2. Căn cứ vào đường cho thuốc, người ta chia ra: gây mê khí dung và gây mê không khí dung. - Gây mê khí dung: là dùng thuốc mê dạng nước dễ bay hơi (cloroform, ether ethylic, halothan…), hoặc các thuốc mê dạng khí (nitơ oxít, xiclopropan…) đưa vào cơ thể bằng đường hô hấp. - Gây mê không phải khí dung: là dùng các loại thuốc mê như: Rượu etylic, cloral hydrat, natri thiopetal, ketamin, zoletil… đưa vào cơ thể vật nuôi bằng các đường khác nhau trừ đường hô hấp. Phổ biến hơn cả là tiêm vào tĩnh mạch, ngoài ra còn đưa vào cơ thể vật nuôi bằng con đường uống, tiêm dưới da, tiêm bắp thịt, tiêm phúc mạc, thụt trực tràng… 3. Căn cứ vào số lượng thuốc mê sử dụng, người ta chia ra: gây mê đơn và gây mê hỗn hợp - Gây mê đơn: là chỉ sử dụng một loại thuốc gây mê. - Gây mê hỗn hợp: là sử dụng từ 2 loại thuốc mê trở lên. c. Triệu chứng mê( quá trình mê) Quá trình mê hay triệu trứng của động vật xảy ra khi gây mê, được chia ra làm 4 giai đoạn. - Giai đoạn giảm đau: xuất hiện ngay sau khi đưa thuốc mê vào cơ thể động vật. Động vật có biểu hiện bồn chồn, lo lắng, không yên tĩnh. Cảm giác đau và các cảm giác khác bắt đầu giảm. Hô hấp trở nên sâu và đều. Mạch nhanh nhưng vẫn đầy. Nhãn cầu vận động tùy tiện. Đồng tử dãn ra 1 chút. Phản xạ và trương lực cơ bắt đầu bị hạn chế. - Giai đọan hưng phấn: Các cảm giác tiếp tục giảm. Xuất hiện tình trạng mất tri giác, nhưng các phản xạ lại tăng cường. Động vật biểu hiện sợ sệt rõ rệt, thét lên những tiếng thất thanh. Trương lực cơ tăng cường, vật giãy đạp mạnh. Đầu lắc lư, bốn chân lảo đảo, xiêu vẹo. Ngựa và trâu, bò có hiện tượng giật nhãn cầu, đồng tử tiếp tục giãn. Tăng tiết các tuyến: tuyến nước bọt, tuyến lệ, tuyến phế quản. Xuất hiện nôn và nấc. Mạch nhanh và đầy, tăng huyết áp. Hô hấp nhanh không đều. Giai đoạn này có nguy cơ xảy ra các tai biến, song cũng được lợi dụng để chỉnh xương khớp. - Giai đoạn mê: Con vật ngày càng mê sâu hơn. Hô hấp đều hơn rồi thưa dần và nông dần, ngày càng trở nên thưa hơn và nông hơn. Tim đập chậm và yếu dần, mê càng sâu thì nhịp tim càng thưa, càng yếu hơn. Mạch thưa và không đầy, mê sâu rất khó bắt được mạch. Sự tiết dịch giảm dần rồi ngừng hẳn. Trương lực cơ giảm dần, rồi đột ngột mất hẳn. Cơ mềm ra, nhẽo ra; nếu gây mê ở tư thế đứng con vật 12
  14. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 mất khả năng trụ có thể ngã vật xuống. Các phản xạ giảm dần rồi mất hẳn. Lưỡi khô và thè ra ngoài. Nhãn cầu xoay xuống dưới, đồng tử co đến giới hạn. Tình trạng của động vật trở nên nguy hiểm hơn khi hô hấp nông và ngắt quãng, mạch chỉ hoặc không bắt được mạch, huyết áp tụt, niêm mạc bắt đầu xanh, tím tái, đồng tử dãn ra, thân nhiệt giảm... - Giai đoạn cuối phụ thuộc vào tác dụng của thuốc tiếp tục hay ngừng lại. Thuốc hết tác động, con vật dần dần tỉnh lại, biểu hiện của con vật ngược lại với quá trình mê; được gọi là thoát mê. Khi đã mê sâu nhưng thuốc mê vẫn tiếp tục tác động, con vật bị trúng độc do thuốc mê. Con vật có những biểu hiện: thở thưa dần rồi ngừng thở, tim đập thoi thóp rồi cũng ngừng hẳn, kết cục dẫn đến cái chết của động vật. d. Chú ý khi gây mê động vật 1. Trước khi gây mê - Kiểm tra thật cẩn thận vật nuôi trước khi gây mê, không gây mê khi động vật mắc bệnh tim mạch. Không gây mê sâu khi: vật nuôi sốt cao, rối loạn chức năng hô hấp, gan, thận, vật nuôi quá già yếu, kiệt sức, có chửa ở giai đoạn cuối. - Bắt vật nuôi nhịn ăn 18-24 giờ, cho uống nước đầy đủ - Gây mê cho vật nuôi lớn, nhất là đối với động vật có sừng thường rất khó khăn và nguy hiểm, vì vậy chỉ gây mê khi thật cần thiết. - Tiên lượng phẫu thuật có kết cục không thuận lợi, có khả năng giết mổ vật nuôi thì không nên sử dụng thuốc mê tồn dư mùi trong thịt như: cloroform, ether… - Sử dụng thuốc tiền mê trước 15-20 phút. 2. Trong khi gây mê - Sử dụng thuốc mê đúng phương pháp - Chọn liều thuốc mê cho thích hợp (thường vật nuôi béo, khỏe, ăn no khó mê hơn so với vật nuôi gầy yếu, đói ăn, vật nuôi già, non) - Tiến hành gây mê ở những nơi ấm áp, kín gió - Khi đưa thuốc mê vào cơ thể bằng đường tĩnh mạch phải chậm, vừa tiêm vừa quan sát, khi tiêm được 1/3 liều nên dừng lại, nếu gia súc không có những biểu hiện xấu mới tiếp tục tiêm tiếp. - Gây mê ở tư thế đứng phải theo dõi biểu hiện của vật nuôi, giúp đỡ con vật nằm xuống nhẹ nhàng khi chuyển sang giai đoạn mê. - Trong khi thực hiện phẫu thuật vẫn phải có người theo dõi biểu hiện của con vật, nếu có biểu hiện khác thường, không tuân theo quá trình mê cần được xử lý kịp thời. - Đang phẫu thuật vật nuôi đã tỉnh có thể cho thêm thuốc mê, nhưng không được quá 2/3 liều đã dùng ban đầu. 3. Sau khi mê - Phẫu thuật xong, nhanh chóng giải thoát vật nuôi khỏi sự cố định, đỡ nó đứng dậy, đưa về chỗ ở an toàn. Thường xuyên có người theo dõi cho đến khi con vật tỉnh hẳn. 13
  15. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 - Không ép con vật ăn khi chưa nuốt được thức ăn. - Bổ xung năng lượng, tăng cường hồi phục sức khỏe bằng truyền glucose 5%, nước muối sinh lý, lactat ringer… Sử dụng các loại vitamin A,C, B1,B12… - Dùng thuốc trợ tim (cafein 20%, adrenalin 0,1%), kích thích hô hấp bằng cho thở dưỡng khí hay ngửi amoniac (tẩm amoniac vào cục bông rồi để cách mũi con vật 5-10 cm) e. Phương pháp gây mê động vật : ngựa, trâu bò, lợn, chó, mèo, động vật hoang dã. 1. Gây mê cho ngựa - Ngựa có hệ thần kinh tương đối linh hoạt, khả năng chịu đau kém, vì vậy khi thực hiện phẫu thuật ở ngựa nên chỉ định gây mê. - Thuốc tiền mê dùng cho ngựa là atropin sulfat 1%, liều lượng: 1-2ml/100kg TT. Tiêm dưới da trước khi dùng thuốc mê 15-20 phút. 1.1 Gây mê bằng cloral hydrat Cloral hydrat có thể đưa vào cơ thể bằng nhiều cách: tiêm tĩnh mạch, cho uống, thụt trực tràng. Liều dùng: 8-10g/100kg TT. + Gây mê tĩnh mạch: - Để tránh tác dụng gây dung huyết của thuốc, phải pha thành nồng độ 10% trong dung môi (Glucose 10%, natri clorid 0,9%, natri xitrat 5%).  Thuốc pha xong dùng ngay, để lâu mất tác dụng, khi tiêm không được để thuốc lọt ra ngoài tĩnh mạch. + Gây mê dạ dày: Để tránh kích thích của thuốc vào niêm mạc dạ dày, pha thuốc trong nước ngọt, hồ tinh bột thành nồng độ 5%, cho uống qua ống thông thực quản. + Gây mê trực tràng: Tương tự như cho uống, phải pha thuốc trong các dung môi bảo vệ niêm mạc trực tràng, đạt nồng độ không quá 5%. Thụt vào trực tràng sau khi đã giải thoát hết phân, khi rút ống thông ra phải nhẹ nhàng, đồng thời kích thích cho cơ vòng hậu môn khép kín lại. 1.2 Gây mê bằng rompun 14
  16. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 Rompun là thuốc mê dang nước, hãng Bayer của C.H Liên bang Đức sản xuất. - Rompun 5ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp đạt được mức độ mê nông, có thể phẫu thuật vật nuôi ở tư thế đứng. - Rompun 4ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Cloral hydrat 8g/100kg TT, tiêm tĩnh mạch. Thời gian mê có thể đạt tới 1,5 giờ. - Rompun 5ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Natri thiopental 0,6- 0,8g/100kg TT, tiêm tĩnh mạch (không được lọt ra ngoài). Thời gian mê có thể đạt tới 1,5 giờ. 2. Gây mê cho loài nhai lại Thuốc tiền mê dùng cho loài nhai lại là atropin sulfat 1%. Liều 1-2ml/100kg TT, tiêm dưới da trước khi dùng thuốc mê 15-20 phút. 2.1 Gây mê bằng cồn etylic Cồn etylic 96% (loại tinh khiết), liều 30-40ml/100kg TT. Dùng glucose 5% hay nước muối sinh lý, hạ thấp cồn xuống còn 30-40%, tiêm chậm vào tĩnh mạch.  Chỉ đạt mức độ chếnh choáng, thực hiện được các thủ thuật chỉnh xương khớp. 2.2 Gây mê bằng cloral hydrat Dùng phương pháp tiêm tĩnh mạch, liều dùng 10g/100kg TT, cách pha thuốc và tiêm giống như ngựa. Ở ngựa cho kết quả tốt nhưng loài nhai lại không chắc chắn. 2.3 Gây mê kết hợp bằng cồn etylic và cloral hydrat. Dùng cồn etylic 96%, liều 25ml/100kg TT, pha loãng thành nồng độ 30-40%, tiêm chậm vào tĩnh mạch. Sau đó dùng cloral hydrat 8g/100kg TT, pha thành nồng độ 10% trong dung môi (Glucose 10%, natri clorid 0,9% hoặc natri xitrat 5%), tiêm tĩnh mạch.  Con vật mê kéo dài 1-1,5 giờ. 2.4 Gây mê bằng natri thiopental 15
  17. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 Natri thiopental là thuốc mê dạng bột, liều gây mê cho loài nhai lại là 1,5g/100kg TT, pha trong nước muối sinh lý, đạt nồng độ 5%, tiêm chậm vào tĩnh mạch (không được lọt ra ngoài tĩnh mạch). Thời gian mê kéo dài khoảng 1 giờ. Chú ý: Theo dõi sát sao hành vi của con vật, quá trình mê đến rất nhanh con vật có thể đổ vật xuống ngay khi chưa kết thúc tiêm thuốc. 2.5 Gây mê bằng rượu ngon Dùng rượu ngon (30-40%) cho trâu, bò cái, bê, nghé uống, liều 200-300ml/100kg TT.  Đạt được mức độ chếnh choáng ở vật nuôi, cho phép tiến hành các thủ thuật chỉnh xương khớp. 3. Gây mê cho lợn Thuốc tiền mê dùng cho lợn là amilazin, liều 0,5mg/1kg TT, tiêm dưới da hoặc bắp thịt. 3.1 Gây mê bằng natri thiopental Liều 1,5g/100kg TT, pha trong nước muối sinh lý đạt nồng độ 5%, tiêm tĩnh mạch (không được để thuốc lọt ra ngoài). Quá trình mê kéo dài khoảng 1 giờ. 3.2 Gây mê bằng cloral hydrat Liều 10g/100kg TT, pha thành nông độ 10% trong dung môi (glucose 10%, natri clorid 0,9%, natri xitrat 5%), tiêm tĩnh mạch hay phúc mạc. Thời gian mê kéo dài khoảng 1,5 giờ. 3.3 Gây mê bằng combelen Combelen là thuốc mê dạng nước, liều dùng 5ml/100kg TT, tiêm tĩnh mạch, con vật mê mức độ nông. 4. Gây mê cho chó, mèo Thuốc tiền mê cho chó, mèo là atropin sulfat 0,1%, liều 1ml/10kg TT, tiêm dưới da 16
  18. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 trước khi dùng thuốc mê 10-15 phút. 4.1 Gây mê bằng zoletil Zoletil là thuốc mê dạng bột, của hãng Virbac sản xuất, có 3 sản phẩm, tùy theo hàm lượng hoạt chất trong chế phẩm: zoletil 25, zoletil 50, zoletil 100. Sản phẩm bán có dung môi kèm theo. Pha dung môi vào thuốc bột, dùng ngay, để lâu kém tác dụng. Liều dùng trung bình (sau khi pha thuốc) của zoletil 50 là 1ml/10kg TT, tiêm dưới da hay tiêm tĩnh mạch đều được. Với chó tiêm tĩnh mạch cho kết quả tốt hơn, với mèo tiêm vào đâu cũng cho kết quả như nhau. 4.2 Gây mê bằng natri thiopental Dùng natri thiopental, liều 15mg/1kg TT, pha thành nồng độ 5% trong nước muối sinh lý, tiêm tĩnh mạch, thời gian mê trung bình 1 giờ. Có thể tăng liều lên 30mg/1kg TT thời gian mê kéo dài tới 2 giờ. 4.3 Gây mê bằng rompun kết hợp với ketamin Rompun 0,5ml/10kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Ketamin 0,5ml/10kg TT, tiêm tĩnh mạch, dưới da hay tiêm bắp.  Thời gian mê kéo dài khoảng 1 giờ. 4.4 Gây mê bằng ketamin Ketamin 1ml/10kg TT, tiêm tĩnh mạch, con vật mê khoảng 1 giờ. 2. Gây tê a. Khái niệm - Gây tê cục bộ là dùng thuốc để làm mất tạm thời cảm giác đau, cảm giác nhiệt, cảm giác xúc giác và các cảm giác khác ở tổ chức cục bộ vùng định phẫu thuật. - Những chất gây tê thường dùng là: Novocain, lidocain, dicain… ở nước ta thông dụng là novocain va lidocain, trong thú y thường dùng novocain vì nó rẻ tiền hơn. Người ta pha novocain trong nước cất hay nước muối sinh lý ở các nồng độ khác nhau 0,125-10%, nồng độ thông dụng là 0,25-3%. + Để tăng cường tác dụng của novocain, người ta cho adrenalin 0,1% vào dung dich novocain, với tỷ lệ 2ml adrenalin 0,1%/ 1 lít dung dịch novocain ở nồng độ nào đó. 17
  19. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 + Để có thêm tác dụng tiệt trùng thêm rivanol vào dung dịch novocain đạt nồng độ 0,1%. + Để kéo dài thời gian tê và giảm chảy máu trong phẫu thuật thêm huyết thanh vào dung dịch gây tê. + Để kéo dài sự tê (có khi đến 2 ngày) pha thuốc tê trong dầu thực vật, dầu cá làm chậm sự hấp thu thuốc tê  Kéo dài thời gian tê. b. Phương pháp gây tê Gây tê bề mặt Sử dụng để gây tê niêm mạc, tương mạc, màng hoạt dịch… - Để gây tê niêm mạc mắt, ta nhỏ vào niêm mạc mắt vài giọt novocain 5-10%. - Gây tê niêm mạc miệng, mũi, hầu, cơ quan sinh dục hay các niêm mạc khác, dùng dung dịch novocain 5-10% tẩm vào cục bông rồi thấm vào niêm mạc. - Gây tê niêm mạc bàng quang, dùng novocain 0,25-0,5%, bơm vào trong bàng quang sau khi đã giải thoát hết nước tiểu. - Gây tê màng hoạt dịch, dùng novocain 4-6% bơm vào sau khi đã rút hết dịch trong nó. Tùy theo từng dung tích xoang, người ta có thể bơm vào 5-50ml dung dịch thuốc tê. - Gây tê phúc mạc, dùng novocain 2-4%, đưa thuốc vào bằng kim tiêm, cho vật nuôi nhỏ khoảng 20ml. Với vật nuôi lớn không có ý nghĩa vì phúc mạc của chúng quá lớn. - Bề mặt da không thấm hút các dung dịch nước, vì vậy người ta gây tê nó bằng phương pháp giảm thể nhiệt: chườm lạnh hay tưới dung dịch bay hơi nhanh như ethyl clorid. Gây tê thấm - Dùng thuốc tê tiêm vào từng lớp tổ chức của vùng phẫu thuật từ ngoài vào trong: nội bì, dưới da, tổ chức liên kết và các lớp nằm sâu hơn, thuốc tê thấm vào tổ chức cắt đứt sự dẫn truyền kích thích các đầu mút thần kinh hoặc dây thần kinh ở vùng được gây tê. Thường dùng novocain 0,25-1%, lượng dùng từ 50-500ml hoặc hơn nữa, tùy thuộc vùng phẫu thuật lớn hay nhỏ. - Dùng nồng độ thấp, lượng lớn có tác dụng: + Làm tách các lớp tổ chức giúp người phẫu thuật cắt, lọc, bóc, tách dễ dàng. 18
  20. Thạch Văn Mạnh TYD-K55 + Gây áp lực lớn chèn ép các huyết quản nhỏ, hạn chế chảy máu. + Lượng thuốc nhiều làm cho khả năng khuếch tán sâu, rộng hơn, hiệu quả gây tê tốt hơn. - Khi gây tê thấm phải dùng kim nhỏ và dài. Đầu tiên đâm kim vào trong da, gần như kim song song với bề mặt da, đâm ngập đầu kim, bơm thuốc, đến khi thấy da phồng lên thì rút kim ra một chút, cứ lam như vậy cho đến hết chiều dài vết mổ. Vết mổ dài có thể làm từ hai đầu chập lại. Lần lượt hết lớp nội bì, tiếp tục tới lớp dưới da, rồi đến lớp tổ chức liên kết và các lớp tổ chức sâu hơn. - Khi phẫu thuật ở diện rộng, người ta dùng phương pháp này gây tê thấm phong tỏa, tiêm xung quanh vùng phẫu thuật với nhiều điểm tiêm. Gây tê dẫn truyền - Gây tê dẫn truyền là dùng thuốc tê tiêm vào tổ chức xung quanh dây thần kinh chi phối vùng định phẫu thuật, làm cho dây thần kinh đó mất khả năng dẫn truyền kích thích từ vùng phẫu thuật đến trung khu thần kinh. - Dùng dung dịch gây tê có nồng độ cao hơn so với gây tê thấm (novocain 2-3%) do các dây thần kinh có tổ chức liên kết thưa và lớp mỡ bao bọc. - Liều từ 5-20 ml tùy thuộc vào độ dày của dây thần kinh và vị trí nằm nông, sâu của nó. - Khi tiêm cần chú ý tránh tiêm vào mạch máu vì dây thần kinh thường đi kèm với mạch máu. - Khi thực hiện gây tê dẫn truyền thường phải kết hợp với gây tê thấm hay gây tê bề mặt, vì tại mô bào cục bộ có nhiều đầu mút của các dây thần kinh khác nhau chi phối. Gây tê ngoài màng cứng tủy sống. Xoang ngoài màng cứng là xoang ở giữa màng cứng của tuỷ sống và màng xương bên trong của xương sống. Dùng thuốc tê tiêm vào xoang ngoài màng cứng sẽ cắt đứt dẫn truyền kích thích của thần kinh cạnh sống đi qua xoang ấy.  Gây tê ngoài màng cứng tủy sống được xem như một loại gây tê dẫn truyền trung tâm. Căn cứ vào vị trí tiêm thuốc tê mà người ta chia ra: + Gây tê thắt lưng (lumbalis): Điểm giữa đốt sống hông 1 và 2 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2