intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Mẫu hình xu hướng

Chia sẻ: Nguyễn Văn Phong | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:36

102
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Mẫu hình xu hướng trình bày về mô hình đảo chiều (mô hình vai đầu vai; mô hình hai đỉnh và hai đáy; mô hình ba đỉnh và ba đáy; mô hình hình chữ nhật; mô hình cờ hiệu). Mời các ban tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Mẫu hình xu hướng

  1. NHÓM  7 – NGÂN HÀNG KHỐI II –K38 MẪU HÌNH XU HƯỚNG NGUYỄN HỮU CHIẾN. NGUYỄN TIẾN LÂM. NGUYỄN THỊ CẨM NHUNG. BÀNH THÚY BÍCH. LÂM TẤN BỬU. NGUYỄN HỮU ĐẠT. MAI QUỐC TRỌNG. NGUYỄN THỊ KIM PHỤNG 3/8/2015
  2. MẪU HÌNH XU HƯỚNG A. MÔ HÌNH ĐẢO CHIỀU I. MÔ HÌNH VAI ĐẦU VAI Hãy tìm hiểu mô hình có lẽ  được coi là phổ  biến và đáng tin cậy nhất trong  các mô hình đảo chiều hiện nay – mô hình đảo chiều đầu và vai (the Head and  Shouder Reversal).  Chúng ta sẽ  dành nhiều thời gian cho mô hình này vì tầm  quan trọng của nó đồng thời để giải thích tất cả các sắc thái có liên quan. Phần  lớn các mô hình đảo chiều khác đều là biến thể của mô hình đầu và vai, vì thế,  chúng ta không cần nghiên cứu thêm. Đầu và vai là gì? – Là mô hình đảo chiều phổ  biến nhất. Khi thị  trường đạt  đỉnh, ba đỉnh nổi bật hình thành với đỉnh giữa (hay đầu) hơi cao hơn hai đỉnh kia   (vai). Khi đường xu hướng (đường viền cổ) nối các đáy  ở  giữa bị  phá vỡ, mô   hình kết thúc. Một mô hình đáy là phiên bản đảo ngược của một mô hình đỉnh   và được gọi là đầu và vai đảo chiều. Hình 5.1a ví dụ đỉnh đầu và vai. Vai trái và phải (A và E có cùng chiều cao. Đầu  C cao hơn hai vai kia. Khối lượng giao dịch tại mỗi đỉnh giảm dần. Mô hình  hoàn chỉnh khi giá đóng cửa bên dưới đường viền cổ (đường 2). Mục tiêu giá tối  thiểu được tính từ điểm phá vỡ đường viền cổ hướng xuống một khoảng cách  thẳng đứng bằng khoảng cách từ đầu đến đường cổ. Sự dịch chuyển ngược lại  
  3. thường diễn ra trở lại với đường viền cổ  và sẽ  không cắt đường viền cổ  một   khi nó đã bị phá vỡ. Hình 5.1b Đỉnh đầu và vai. Ba điểm cao nhất trong hình cho thấy đầu cao hơn  hai vai. Ta có thể dự đoán sự dịch chuyển sẽ quay lại đường viền cổ sau đó. Sự hình thành mô hình đầu và vai   Mô hình gồm 4 bước chính để hoàn thành và báo hiệu sự đảo chiều. Trước hết  thì chúng ta cần một xu hướng tăng đang diễn ra trước đó với hàng loạt đỉnh và  đáy tăng dần đang bắt đầu đánh mất xung lượng.   Bước 1: Vai trái được hình thành khi giá đạt đến một độ cao mới  tại A sau đó  thoái lui đến một điểm thấp mới tại B   Bước 2: Sự hình thành phần đầu khi giá lại tăng đến một độ  cao mới cao hơn   tại C sau đó giật lùi lại đến một điểm thấp gần với điểm thấp đã hình thành ở  phần vai trái chính là điểm D    Bước 3: Sự  hình thành vai phải khi giá tăng đến điểm E thấp hơn điểm đỉnh  của phần đầu –điều này là tín hiệu cảnh báo rằng đồ  thị sẽ  diễn ra theo hướng  ngược lại ( do để xu hướng tăng tiếp diễn thì mỗi điểm cai nhất ở sau phải cao   hơn điểm cao nhất của đợt phục hồi giá trước)   Bước 4: Mô hình hoàn thành một khi giá giảm xuống phía dưới đường viền cổ  (đường viền cổ hình thành khi nối hai điểm thấp nhất là B và D. Thông thường,   đường này nghiêng một góc nhỏ tại đỉnh) ­ Yếu tố quyết định hình thành một đỉnh đầu và vai là sự phá vỡ đường viền cổ  một cách dứt khoát. Thị trường đã bẻ gãy đường xu hướng nối các đáy B và D,  rơi xuống ngưỡng hỗ trợ tại điểm D tạo đủ điều kiện hình thành một xu hướng 
  4. giảm mới – gồm những đỉnh và đáy đi xuống. Những đỉnh và đáy giảm dần tại   C, D, E và F xác định xu hướng giảm mới. Khối lượng giao dịch có thể tăng khi  đường viền cổ  bị  phá vỡ. Tuy nhiên, việc khối lượng giao dịch tăng trong thị  trường giá giảm cũng chưa phải là yếu tố  then chốt để  có thể  bắt đầu hình  thành một đỉnh thị trường. ­ Điểm phá vỡ khi mà hầu hết nhà giao dịch đi theo mô hình tham gia thị trường Biến động quay đầu Thông thường, một biến động được gọi là quay đầu khi bật trở lại mức đáy của  đường viền cổ hay mức đáy trước đó tại điểm D (xem điểm G) và bây giờ, cả  hai điểm này đều trở  thành ngưỡng kháng cự. Không phải lúc nào biến động  quay đầu cũng diễn ra hay đôi khi chỉ  đơn thuần là một sự  bật lại không đáng  kể. Biến động quay đầu có thể dùng để  đánh giá độ  tin cậy của mô hình, xem   rằng liệu mô hình có đi đúng với sự đảo chiều mà nó dự báo không hay sẽ tiếp   diễn với xu hướng cũ. Khối lượng giao dịch có thể  xác định phạm vi bật lại.   Nếu điểm gãy ban đầu của đường viền cổ  nằm tại mức giao dịch rất lớn thì  khả  năng xuất hiện biến động quay đầu là không có bởi khối lượng giao dịch   tăng tức là áp lực giảm giá cũng tăng. Khối lượng giao dịch tại những điểm phá  vỡ  đường viền cổ  ít hơn làm gia tăng khả  năng một biến động quay đầu. Tuy   nhiên, sự  hồi phục nên diễn ra với khối lượng giao dịch nhỏ  trong khi một xu   hướng giảm mới diễn ra sau đó có thể  bắt đầu cùng với khối lượng giao dịch  tăng đáng kể. Tầm quan trọng của khối lượng giao dịch Mô hình khối lượng giao dịch đi kèm đóng vai trò quan trọng trong việc hình  thành và phát triển đỉnh đầu và vai cũng như  bất kỳ  một mô hình giá nào. Nhìn  chung, khối lượng giao dịch tại điểm đầu nên thấp hơn vai trái. Đó không phải  là điều kiện nhưng lại là một xu thế  phổ  biến và là cảnh báo sớm cho sự  sụt  giảm áp lực mua. Khối lượng giao dịch trong giai đoạn ba đỉnh (vai phải) là quan  trọng nhất. Khối lượng giao dịch phải thấp hơn hai đỉnh kia rất nhiều. Trong mô hình đầu và vai, khối lượng giao dịch sử dụng chủ yếu ở điểm phá vỡ  để giúp đánh giá mô hình. Tại điểm này, rất quan trọng khi sự phá vỡ xảy ra đi  cùng với khối lượng giao dịch lớn vì khi đó khả năng xuất hiện biến động quay   đầu là không có  bởi khối lượng giao dịch tăng tức là áp lực giảm giá cũng tăng.   Khối lượng giao dịch tại những điểm phá vỡ đường viền cổ ít hơn làm gia tăng  khả năng có một biến động quay đầu. .
  5. Xác định mục tiêu giá Phương pháp để  đạt được mục tiêu giá sử  dụng chiều cao của mô hình. Ta sẽ  lấy khoảng cách theo chiều dọc từ đầu (điểm C) xuống đường viền cổ  rồi sau   đó chiếu khoảng cách này từ  điểm đường viền cổ  bị  phá vỡ. Ví dụ  điểm cao   nhất của đầu là 100 và đường viền cổ là 80. Do đó khoảng cách theo chiều dọc   là khoảng chênh lệch 20. Điểm chênh lệch 20 này sẽ  được đo xuống từ  điểm  mà đường viền cổ  bị  phá vỡ. Nếu như đường viền cổ  trên hình 5.1a bị  phá vỡ  tại mức 82, mục tiêu giá giảm sẽ là 62 (82­20=62). Một kỹ thuật khác cũng có thể được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ tương tự  nhưng nhẹ nhàng hơn là chỉ cần đo chiều dài của đợt sóng suy giảm đầu tiên (từ  C đến D) rồi sau đó nhân đôi. Đối với cả hai trường hợp thì chiều cao hay biên   độ dao động của mô hình càng lớn thì mục tiêu càng xa. Việc đo lường dựa trên  điểm phá vỡ đường xu hướng cũng tương tự như thước đo được sử dụng trong   mô hình đầu và vai. Chúng ta có thể  nhìn thấy vấn đề  này ngay sau đây. Giá  cả dịch chuyển mạnh dưới đường viền cổ bị phá vỡ với khoảng cách tương tự  như trên đường viền cổ. Bạn sẽ nhận ra rằng gần như tất cả mục tiêu giá trên  đồ  thị  thanh đều được xác định dựa trên chiều cao hoặc độ  dao động của các   dạng mô hình khác nhau. Chủ  đề  đo chiều cao của mô hình và chiếu khoảng   cách đó từ điểm phá vỡ hướng xuống sẽ được lặp lại liên tục. Cần nhớ rằng mục tiêu giá đạt được ở đây chỉ là mục tiêu tối thiểu. Giá sẽ còn  di chuyển ra ngoài phạm vi mục tiêu này. Tuy nhiên, việc có được mục tiêu giá  tối thiểu là rất hữu dụng trong việc xác định sớm tiềm năng biến động thị  trường để chiếm vị thế. Nếu thị trường vượt qua khỏi mục tiêu giá, có nghĩa là  thần may mắn đã mỉm cười với bạn. Mục tiêu tối đa là kích thước của biến  động trước đó. Nếu thị  trường tăng giá trước đó di chuyển từ  30 đến 100 thì  mục tiêu tối đa tính từ mô hình đỉnh sẽ được tính bằng cách thoái lùi toàn bộ xu  hướng tăng xuống mức 30. Các mô hình đảo chiều có thể  được mong đợi sẽ  đảo chiều hay thoái lùi những gì đã diễn ra trước đó. Điều chỉnh mục tiêu giá Có nhiều yếu tồ  cần được xem xét khi xác định mục tiêu giá. Những kỹ  thuật   như  cho mô hình đầu và vai chỉ  là bước đầu tiên. Còn nhiều yếu tố  kỹ  thuật  khác cần phải xem xét. Ví dụ, những ngưỡng hỗ trợ nổi bật của xu hướng tăng  trước đó ở đâu? Vì thị trường giảm giá thường đứng tại những mức này. Thoái   lùi theo tỷ lệ phần trăm là bao nhiêu? Mục tiêu tối đa sẽ là sự thoái lùi 100% thị  trường tăng giá trước đó. Vậy những mức thoái lùi 50% và 66% nằm  ở  đâu? 
  6. Những mức này sẽ  cho ta biết được ngưỡng hổ  trợ quan trọng khi thị  trường  giảm giá. Vậy những vùng trống bên dưới thì sao? Nó sẽ có chức năng như khu  vực hỗ trợ. Liệu có đường xu hướng dài hạn nào xuất hiện bên dưới thị trường   không? Nhà phân tích kĩ thuật cần xem xét những dữ liệu kỹ thuật khác nhằm xác định  các mục tiêu giá từ các mô hình giá. Ví dụ, khi giá giảm mục tiêu được xác định  tại 30 và có một ngưỡng hỗ  trợ  nổi bật nằm tại 32 thì người sử  dụng sẽ  linh  hoạt điều chỉnh mức 32 thành mục tiêu giá thay vì 30. Nhìn chung, nếu có sự  chênh lệch giữa mục tiêu giá đo được và ngưỡng hỗ trợ hay kháng cự rõ ràng thì   nên chọn mục tiêu giá tại ngưỡng hỗ  trợ  hoặc kháng cự. Việc xem xét thêm   những thông tin kỹ  thuật khác để  điều chỉnh mục tiêu giá là điều cần thiết.  Nhà phân tích kĩ thuật sẽ  có nhiều công cụ  hỗ  trợ  lọc lại những thông tin này.  Một nhà phân tích kĩ thuật khôn ngoan là người biết cách kết hợp những công  cụ này một cách thích hợp. II.  MÔ HÌNH HAI ĐỈNH VÀ HAI ĐÁY  Một mô hình đảo chiều phổ biến hơn là hai đỉnh hoặc hai đáy. Sau mô hình đầu  và vai thì đây là dạng được sử  dụng nhiều nhất và được nhận dạng dễ  dàng  nhất. (Xem hình 5.5a­c). Các hình 5.5a và 5.5b là ví dụ  về  trạng thái khác nhau  của cả  đỉnh lẫn đáy. Như  hình dạng mà chúng ta có thể  thấy được trên đồ  thị,  đỉnh thường được gắn với chữ  M và đáy là chữ  W. Các đặc điểm chung của  một mô hình hai đỉnh cũng tương tự  như  các đặc điểm của  mô hình đầu và  vai và ba đỉnh, ngoại trừ việc chỉ có hai đỉnh xuất hiện thay vì ba. Mô hình khối  lượng giao dịch cũng tương tự theo nguyên trạng của quy tắc đo lường. Trong một xu hướng tăng (như  được thể  hiện trong hình 5.5a), thị  trường sẽ  thiết lập ngưỡng cao mới tại điểm A với khối lượng giao dịch tăng, sau đó rớt   xuống điểm B với khối lượng giảm. Cho đến giờ, mọi thứ diễn ra như kỳ vọng   trong một  xu hướng tăng thông thường. Tuy nhiên, đợt hồi phục tiếp theo tới 
  7. điểm C thì không thể  vượt qua đỉnh trước đó tại A để  đóng lại mô hình và bắt  đầu giảm xuống lần nữa. Một Hình 5.5a Mô hình hai đỉnh. Mô hình này có hai ngưỡng cao nhất (A và C)  ở  cùng một mức giá. Giá đóng cửa tại điểm B thấp hơn đáy giữa với khối lượng   giao dịch lớn sẽ hoàn chỉnh mô hình và cho biết tín hiệu đảo chiều  xu hướng đi  xuống. Không có gì ngạc nhiên khi biến động quay đầu hướng đến điểm phá vỡ  trước khi hồi phục xu hướng giảm.
  8. Hình 5.5b Mô hình hai đáy. Đây là hình  ảnh tương phản của mô hình hai đỉnh.   Khối lượng giao dịch trở  nên quan trọng hơn  ở  điểm phá vỡ  hướng lên. Các  biến động quay đầu hướng đến điểm phá vỡ thường xảy ra ở đáy.
  9. Hình 5.5c Ví dụ về mô hình hai đáy. Giá cổ phiếu giảm mạnh hai lần ở mức 68   trong thời gian ba tháng. Lưu ý rằng điểm đáy thứ hai còn là một phiên giao dịch  đảo chiều đi lên. Sự phá vỡ ngưỡng kháng cự 80 hoàn chỉnh ở phần đáy.
  10. Hình 5.5d Ví dụ về mô hình hai đỉnh. Đôi khi, đỉnh thứ hai không đạt đến mức   giá của đỉnh thứ nhất như trong ví dụ này. Mô hình hai đỉnh kéo dài hai tháng này  báo   hiệu   một   xu   hướng   giảm   giá   lớn.   Tín   hiệu   thật   sự   là   điểm   phá   vỡ  của ngưỡng hỗ trợ gần mức 46.
  11. Hình 5.5e Các mô hình giá thường xuất hiện trên đồ  thị  của các đường trung  bình giá chính. Trên đồ thị này, chỉ số Nasdaq Composite hình thành nên một mô   hình hai đáy gần mức 1470 trước khi quay đầu hướng lên. Điểm phá vỡ  của  đường xu hướng giảm sẽ khẳng định xu hướng tăng giá. mô hình hai đỉnh tiềm năng đã được thiết lập. Sử dụng từ “tiềm năng” bởi theo  nguyên trạng của tình huống với các  mô hình đảo chiều thì sự  đảo chiều vẫn  chưa kết thúc cho đến khi ngưỡng hỗ  trợ trước đó tại điểm B bị  phá vỡ. Cho  đến khi điều đó xảy ra, giá vẫn trong giai đoạn củng cố, chuẩn bị  cho sự  hồi   phục xu hướng tăng ban đầu. Một đỉnh lý tưởng sẽ có hai ngưỡng cao nhất ở cùng một mức giá. Khối lượng  giao dịch tại ngưỡng thứ nhất sẽ rất lớn và giảm đi ở ngưỡng thứ hai. Giá đóng  cửa tại điểm B thấp hơn đáy giữa với khối lượng giao dịch lớn sẽ  hoàn chỉnh  
  12. mô hình và cho biết tín hiệu đảo chiều xu hướng đi xuống. Không có gì ngạc   nhiên khi biến động quay đầu hướng đến điểm phá vỡ  trước khi hồi phục xu   hướng giảm. Kỹ thuật đo lường đối với mô hình hai đỉnh Kỹ thuật đo lường được sử dụng trong mô hình hai đỉnh là đo chiều cao mô hình  từ hai đỉnh A&C đến đáy giữa B và chiếu khoảng cách đó từ điểm phá vỡ xuống   dưới.  Cách đo lường đối với mô hình hai đáy thì ngược lại. III.  MÔ HÌNH BA ĐỈNH VÀ BA ĐÁY  Gần như  mọi đặc điểm được nhắc đến trong mô hình đầu và vai  (Head and  Shouder) đều có thể  được áp dụng cho các dạng mô hình đảo chiều khác trong  đó có mô hình ba đỉnh và ba đáy (Triple Tops and Triple Bottoms) (Xem hình   5.4a­c). Thực tế  hai mô hình này – vốn rất hiếm khi xảy ra – là biến thể  phụ  của mô hình trên, sự khác biệt rõ rệt nhất chính là sự tương quan giữa các đỉnh  hoặc các đáy của mô hình (Xem hình 5.4a). Người sử  dụng đồ  thị  thường bất  đồng trong việc xem xét khả năng liệu một mô hình đảo chiều là đầu và vai cơ  bản hay là ba đỉnh. Lập luận này mang tính học thuật vì cả hai mô hình đều có   cùng hàm ý như nhau.
  13. Hình 5.4a Mô hình ba đỉnh. Cũng giống như mô hình đầu và vai nhưng các đỉnh  ở đây có cùng kích cỡ gần như là như nhau. Khối lượng giao dịch tại mỗi đỉnh   thường giảm dần. Mô hình chỉ hoàn chỉnh khi cả hai đáy đều bị phá vỡ với khối   lượng giao dịch lớn. Kỹ  thuật đo lường là tính chiều cao từ  điểm phá vỡ  đi   xuống. Biến động quay đầu chạm đường bên dưới là điều bình thường.
  14. Hình 5.4b Một mô hình ba đáy. Cũng tương tự  như  đáy đầu và vai, ngoại trừ  mức độ các đáy như nhau. Nó là hình ảnh đảo ngược của mô hình ba đỉnh ngoại   trừ khối lượng giao dịch có ý nghĩa quan trọng hơn tại điểm phá vỡ tăng giá.
  15. Khối lượng giao dịch có xu hướng giảm dần tại mỗi đỉnh và tăng dần tại các  điểm phá vỡ. Mô hình ba đỉnh sẽ  chưa hoàn chỉnh nếu ngưỡng hỗ  trợ tại các  đáy xen giữa vẫn chưa bị  phá vỡ. Ngược lại, giá phải đóng thông qua hai đỉnh   xen giữa tại đáy nhằm hoàn chỉnh mô hình ba đáy. (Như  một chiến lược thay   thế, việc phá vỡ đỉnh hoặc đáy gần nhất có thể được sử dụng như một tín hiệu  đảo chiều). Khối lượng giao dịch lớn phía trên khi hoàn thiện đáy cũng là điều   kiện quyết định. Hàm ý đo lường cũng tương tự đầu và vai, và cũng được dựa vào chiều cao của   mô hình. Giá thường biến động với một khoảng cách tối thiểu từ điểm phá vỡ ít  nhất bằng chiều cao mô hình. Một khi sự phá vỡ xảy ra, biến động quay đầu tới  điểm phá vỡ là bình thường. Vì mô hình ba đỉnh và đáy chỉ là một biến thể nhỏ  của mô hình đầu và vai nên chúng ta sẽ  không dành nhiều thời gian cho đề  tài  này.
  16. B.  MÔ HÌNH ĐẢO CHIỀU I. MÔ HÌNH HÌNH CHỮ NHẬT. Mô hình hình chữ  nhật  là sự  tạm ngừng xu hướng, trong đó giá biến động đi  ngang giữa hai đường ngang nằm song song nhau, (xem hình 6.9a­c) Hình chữ nhật thường được xem như biên độ  giao dịch hoặc khu vực giằng co   giá. Nó là một giai đoạn củng cố xu  hướng hiện có, và được xác định theo  hướng thị trường diễn ra trước đó. Hình 6.9a Ví dụ một hình chữ nhật( Mô hình hình chữ nhật)  trong thị trường giá  lên trong xu hướng tăng. Mô hình này được gọi là biên độ giao dịch, và thể hiện   giá đang giao dịch trong phạm vi giữa hai đường xu hướng nằm ngang. Nó còn  được gọi là khu vực giằng co giá.
  17. Hình 6.9b là Ví dụ  về  một hình chữ  nhật( Mô hình hình chữ  nhật) trong thị  trường giá xuống. Mặc dù hình chữ  nhật thường được xem như mô hình tiếp  diễn, nhưng nhà giao dịch phải luôn luôn cảnh giác tín hiệu  mô hình đảo chiều,  chẳng hạn như mô ba đáy.
  18. Hình 6.9c Một hình chữ nhật trong thị trường giá lên. Xu thế  tăng của Compaq   bị ngắt quãng trong bốn tháng bằng những diễn biến giá đi ngang. Cú phá vỡ đi  lên trên đường xu hướng phía trên đầu tháng năm giúp hoàn chỉnh mô hình và  hồi phục xu hướng tăng. Hình chữ nhật thường là dạng mô hình tiếp diễn. Giá vượt ra khỏi đường biên trên hoặc dưới một cách dứt khoát báo hiệu sự  hoàn thành mô hình hình chữ nhật và chỉ ra hướng phát triển của xu hướng. Tuy   nhiên, nhà phân tích phải luôn ghi nhớ rằng sự củng cố hình chữ nhật sẽ không  chuyển thành mô hình đảo chiều. Trong xu hướng tăng trên hình 6.9a, ba đỉnh có   thể được hiểu như mô hình đảo chiều ba đỉnh. Giao dịch theo những dao động trong phạm vi biên độ Một số người sử dụng đồ thị giao dịch theo sự dao động trong phạm vi mô hình   bằng cách mua khi giá rớt gần đáy và bán khi giá phục hồi lên đỉnh của biên độ.  Kỹ thuật này được các nhà giao dịch ngắn hạn sử dụng để tận dụng ưu thế của   những đường biên giá đã được xác định sẵn và thu được lợi nhuận từ  một thị 
  19. trường không rõ xu hướng. Vì các vị  thế  được nắm giữ  tại điểm cực của biên  độ  nên rủi ro tương đối thấp và có thể  xác định được. Nếu biên độ  giao dịch   không đổi thì cách tiếp cận ngược xu hướng này rất hiệu quả. Khi một sự phá  vỡ  xuất hiện thì nhà giao dịch không chỉ  thoát khỏi tình trạng thua lỗ  một cách  nhanh chóng mà còn đảo ngược được vị thế trước đó bằng cách khởi động giao  dịch theo hướng phát triển thị trường mới. Những nhà giao dịch khác thừa nhận hình chữ nhật là một mô hình tiếp diễn  và  giữ vị thế mua gần biên dưới dải giá trong xu hướng tăng hoặc khởi động vị thế  bán gần đỉnh biên độ  trong xu hướng giảm. Những người khác cố  né tránh các  thị trường không rõ xu hướng như vậy và chờ đợi sự phá vỡ rõ rệt trước khi tiêu  tiền của mình. Hầu hết những hệ  thống theo xu hướng đều ít hiệu quả  trong  giai đoạn thị trường không rõ xu hướng như thế này. Những điểm tương đồng và bất đồng khác  Về khía cạnh thời gian, hình chữ nhật thường bị phân vào nhóm mô hình từ một   đến   ba   tháng.   Mô   hình   khối   lượng   giao   dịch   khác   vớinhững   mô   hình   tiếp  diễn khác ở chỗ biên độ dao động giá rộng sẽ ngăn chặn sự giảm sút mạnh mẽ  hoạt động giao dịch thường thấy trong những mô hình khác. Kỹ  thuật đo lường phổ  biến nhất được áp dụng cho hình chữ  nhật dựa trên   chiều cao của biên độ giá. Ta sẽ đo chiều cao của biên độ giao dịch từ đáy đến   đỉnh rồi chiếu khoảng cách đó từ  điểm phá vỡ. Phương pháp này giống như  những phương pháp đã được đề  cập, và được dựa trên độ  dao động của thị  trường. Khi nói về phương pháp đếm trong đồ thị điểm và hình, chúng ta sẽ nói  nhiều về phương pháp đo lường theo chiều ngang. Những điều mà chúng ta đã đề cập như khối lượng giao dịch tại điểm phá vỡ và  khả  năng biến động quay đầu cũng có thể  được áp dụng  ở  đây. Vì các đường  biên bên trên và bên dưới trong hình chữ nhật đều nằm ngang và được xác định  rõ nên ngưỡng kháng cụ và hỗ trợ cũng xuất hiện rõ ràng. Điều này có nghĩa là  khi có sự phá vỡ giá thì đỉnh của dải giá trước đó sẽ tạo ra  ngưỡng hổ trợ chắc  chắn để  tiến hành bán tháo. Sau một sự  phá vỡ  hướng xuống của xu hướng   giảm, đáy của biên độ  giao dịch (khu vực hỗ  trợ  trước đó) cũng tạo ra mức  kháng cự chắc chắn phía trên cho mọi đợt hồi phục. II. MÔ HÌNH TAM GIÁC
  20. Có ba loại tam giác – đối xứng, tăng và giảm. (Một số người sử dụng đồ thị tính   cả loại thứ tư là tam giác nối dài, hay dạng mở rộng. Loại này sẽ  được đề  cập   như một mô hình riêng biệt). Mỗi loại tam giác có hình dạng và ý nghĩa dự báo  khác nhau. Hình 6.1a Ví dụ  về  một tam giác đối xứng trong thị  trường giá lên. Chú ý hai  đường xu hướng cắt nhau. Giá đóng cửa bên ngoài hai đường xu hướng giúp  hoàn chỉnh mô hình. Đường thẳng đứng bên trái là đáy. Điểm giao nhau của hai   đường nằm bên phải là đỉnh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2