intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Thái độ của sinh viên đối với vấn đề TNXH

Chia sẻ: Phạm Thị Thúy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:52

528
lượt xem
129
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở nước ta, trong những năm vừa qua, các nhà khoa học pháp lý, các nhà tội phạm học đã có không ít các công trình nghiên cứu về tội phạm và tệ nạn xã hội. Nhà nước cũng đã có nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội như Bộ luật hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh chống tham nhũng, Luật phòng chống ma tuý, Pháp lệnh phòng chống mại dâm v.v......

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Thái độ của sinh viên đối với vấn đề TNXH

  1. Bài Luận Đề Tài: Thái độ của sinh viên đối với vấn đề TNXH
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. 1.1.Cơ sở lí luận: Ở nước ta, trong những năm vừa qua, các nhà khoa học pháp lý, các nhà tội phạm học đã có không ít các công trình nghiên cứu về tội phạm và tệ nạn xã hội. Nhà nước cũng đã có nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội như Bộ luật hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh chống tham nhũng, Luật phòng chống ma tuý, Pháp lệnh phòng chống mại dâm v.v. và cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên, nhà nước cũng đã có các chương trình hành động như: Chương trình quốc gia phòng chống ma tuý... Thế nhưng, trong thực tế cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội mặc dù cũng đã có những kết quả nhất định nhưng chưa phải là cao và chưa đáp ứng được những mong muốn của xã hội. Phòng chống tệ nạn xã hội nói chung ở nước ta hiện nay đã và đang trở thành vấn đề nhức nhối, nó là nguyên nhân của sự bần cùng hóa gia đình, làm băng hoại sức khỏe, nhân cách của con người, là bạn đồng hành của thảm họa HIV/AIDS, đồng thời tác động xấu đến an ninh, trật tự xã hội của đất nước. Tệ nạn xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống gia đình, sức khỏe, nhân cách của con người, là mối hiểm họa của tương lai, để lại hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ mai sau. Tệ nạn xã hội như là một căn bệnh nguy hiểm có sức cuốn hút, cám dỗ và lây lan mạnh mẽ đến tầng lớp thanh thiếu niên nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng là những chủ nhân tương lai của đất nước, họ là những đối tượng dễ xa vào tệ nạn xã hội. Nếu không được định hướng, giáo dục đầy đủ thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Chúng ta đều biết thái độ có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả mọi hoạt động của con người. Chủ thể có thái độ về đối tượng nào thì không những bị thúc đẩy bởi nhu cầu, động cơ, mục đích bên trong mà còn được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động cụ thể với đối tượng đã nhận thức và chi phối sự tác động của nhân tố bên ngoài. Có thể nói thái độ là một yếu tố có vai trò quyết dịnh đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ một hoạt động nào đó của con người trong cuộc sống. 2
  3. Chính vì vậy, đối với tất cả mọi người nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng thì muốn đạt được hiệu quả cao trong mọi lĩnh vực hoạt động thì phải có thái độ tốt đối với vấn đề đó. Thái độ có vai trò quyết định quan trọng đến việc nâng cao chất lượng hiệu quả của mọi công việc. Do đó trong mọi hoạt động nói chung và đặc biệt trong mặt trận đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, mà lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên là một bộ phận rất quan trọng góp phần tích cực trong phong trào này thì việc nâng cao nhận thức, thái độ của học sinh, sinh viên trong vấn đề tệ nạn xã hội là điều hết sức cần thiết. Bởi vì nếu mỗi cá nhân có thái độ tích cực sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội ngược lại nếu không có thái độ tích cực sẽ làm giảm hiệu quả của hoạt động này. 1.2.Cơ sở thực tiễn TNXH là một vấn đề nhức nhối đã và đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Nó đã len lỏi vào từng ngóc ngách, đường phố, từ nông thôn cho đến thành thị. Từ các cơ quan, phân xưởng, nhà máy, xí nghiệp cho đến các trường học. Đặc biệt ở trường ĐHHĐ những năm gần đây đã xuất hiện các hiện tượng TNXH như ma túy, mại dâm, lô đề, bài bạc, bạo hành… Mặc dù các hiện tượng tệ nạn xã hội trên không phải là nhiều nhưng, chưa phải là phổ biến nhưng đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận sinh viên. Nếu chúng ta không có thái độ đúng đắn, nghiêm túc trong việc đấu tranh đẩy lùi tệ nạn xã hội ra khỏi xã hội, trường học thì chắc rằng những năm tới chúng ta sẽ phải đối mặt với những hậu quả khó lường do tệ nạn xã hội gây ra. Nhưng thực tế cho một bộ phận thanh thiếu niên trong đó có học sinh, sinh viên chưa thật sự ý thức được tầm quan trọng và vai trò của việc đấu tranh và đẩy lùi tệ nạn xã hội. Nhiều người còn lơ là và cho rằng đó không phải là việc của mình, không liên quan đến mình, ai làm thì người ấy chịu. Vậy thực tế thái độ của học sinh, sinh viên hiện nay đối với vấn đề tệ nạn xã hội là như thế nào ? Để thực hiện có hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội thiết nghĩ phải nâng cao ý thức, thái độ của người dân đặc biệt là nâng cao ý thức thái độ phòng chống TNXH cho sinh viên. 3
  4. Chính vì những lí do kể trên mà chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Thái độ của sinh viên ngành Tâm lý học (QTNS) trường Đại Học Hồng Đức đối với vấn đề tệ nạn xã hội” để làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu thái độ của sinh viên nghành tâm lý học (QTNS) trường Đại Học Hồng Đức đối với vấn đề tệ nạn xã hội. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao thái độ của sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội, giúp cho sinh viên tích cực, chủ động hơn trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Xây dựng được hệ thống cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài: Thái độ, sinh viên, thái độ của sinh viên tâm lý, tệ nạn xã hội, thái độ của sinh viên tâm lý đối với vấn đề tệ nạn xã hội. 3.2. Khảo sát về thực trạng thái độ của sinh viên tâm lý (QTNS) trường Đại Học Hồng Đức đối với vấn đề tệ nạn xã hội, và nguyên nhân ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội. 3.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao thái độcủa sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thái độ của sinh viên tâm lý học (QTNS) trường Đại Học Hồng Đức đối với vấn đề tệ nạn xã hội. 4.2. Khách thể nghiên cứu: 300 sinh viên tâm lý học (QTNS) trường Đại Học Hồng Đức, Thanh Hóa. Trong đó: - 80 sinh viên k11 - 100 sinh viên k12 - 80 sinh viên k13 - 40 sinh viên k14 4
  5. 5. Giới hạn của đề tài. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu thái độ học tập của sinh viên tâm lý học – quản trị nhân sự, trường Đại Học Hồng Đức đối với vấn đề tệ nạn xã hội gồm 300 sinh viên k11, k12, k13, k14. 6. Phương pháp nghiên cứu. 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Đọc và tìm tài liệu, sách giáo trình nhằm thu thập những thông tin, khai thác các tài liệu có liên quan tới đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Đây là phương pháp cơ bản bao gồm: Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp đàm thoại, và phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động nhằm làm nổi bật thực trạng thái độ của sinh viên tâm lý trường đại học Hồng Đức đối vối vấn đề tệ nạn xã hội. 6.2.1. Phương pháp quan sát. Quan sát những biểu hiện hành vi của sinh viên về thái độ đối với vấn đề ttệ nạn xã hội thông qua các giờ ra chơi, ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp trong và ngoài trường. 6.2.2. Phương pháp điều tra Là phương pháp cơ bản, với việc xây dựng và sử dụng những mẫu câu hỏi điều tra mức độ nhận thức của sinh viên, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội. 6.2.3. Phương pháp phỏng vấn (đàm thoại). Trò chuyện một cách chân thành cởi mở với các bạn sinh viên để khai thác thái độ của họ đối với vấn đề tệ nạn xã hội hiện nay, những khó khăn, cám dỗ mà sinh viên dễ mắc phải khi sống xa nhà. 6.2.4. Phương pháp xử lý toán học. Để đưa ra được những nhận xét khoa học về đối tượng nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các thông tin thu thập. Các công thức chúng tôi đã sử dụng như sau: Công thức tính %: 5
  6. m × 100 %= N Trong đó: m: Số lượng khách thể trả lời N: Số lượng khách thể nghiên cứu. Để biết được có bao nhiêu % trong tổng số khách thể lựa chọn mức điểm trong thang đánh giá. Công thức tính số trung bình cộng: ∑ × 1→ i X= N Trong đó: X : Số trung bình cộng ∑× 1→ i: Tổng điểm đạt được của khách thể nghiên cứu N: Số lượng khách thể nghiên cứu. Từ đó đánh giá được mức độ cao, trung bình của các mặt trong cấu trúc của thái độ đối với sinh viên tâm lý học – QTNS, trường Đại học Hồng Đức. 7. Dự kiến cái mới của đề tài. Khái quát được những vấn đề lý luận của đề tài. Đánh giá dược thực trạng thái độ của sinh viên ngành Tâm lý học – QTNS trường Đại học Hồng Đức đối với vấn đề TNXH và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao thái độ của sinh viên tâm lý học – QTNS trường Đại học Hồng Đức nói riêng và trong sinh viên nói chung về vấn đề TNXH. 6
  7. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 1.1.1. Trên thế giới. Trong lĩnh vực tâm lý học xã hội ở phương tây, vấn đề thái độ luôn là vấn đề được nhiều các nhà khoa học chú ý và nghiên cứu. Đặc biệt là các công trình nghiên cứu về thái độ của các nhà tâm lý học người ở Nga (Liên Xô) và Đức. Nhiều công trình nghiên cứu đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nghành tâm lý học nói riêng và khoa học nói chung trên thế giới. Trọng tâm của các công trình nghiên cứu này, các tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu định nghĩa thái độ, cấu trúc của thái độ, mối quan hệ của thái độ đối với hành vi của con người. Trong một nghiên cứu tổng quan khi nghiên cứu lịch sử thái độ trong tâm lý học phương Tây, nhà tâm lý học người Nga Shikhirev P.M đã chia quá trình này thành ba thời kỳ. - Thời kỳ thứ nhất: (Từ khi khái niệm về thái độ được sử dụng đầu tiên vào năm 1918 cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai). Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, với nhiều công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào định nghĩa, cấu trúc, chức năng của thái độ và mối quan hệ giữa thái độ với hành vi. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Thomas W.I và F. Znaniecki (Mỹ). Nội dung chủ yếu của các nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu định nghĩa cấu trúc, chức năng của thái độ và mối quan hệ giữa thái độ và hành vi. Đặc biệt trong hời gian này đã có hai tác giả phát hiện ra sự không nhất quán giữa thái độ và hành vi của con người (nghịch lý tatite). - Thời kỳ thứ hai (Từ chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến cuối những năm 1950). Vì lý do chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới, cùng với sự bế tắc trong quá trình lý giải các nghịch lý nảy sinh khi nghiên cứu thái độ, nên ở thời kỳ này, các công trình nghiên cứu về thái độ giảm sút cả về số lượng lẫn chất 7
  8. lượng so với các thời kỳ trước đó. Nội dung chủ yếu của thời kỳ này là sự hoài nghi vai trò của thái độ trong việc chi phối hành vi của con người. kết luận của Pieu về sự không nhất quán giữa thái độ và hành vi làm các nhà tâm lý học phương tây hoài nghi. Điều đó phần nào làm giảm đi sự quan tâm nghiên cứu của họ về vấn đề thái độ - Thời kỳ thứ ba: (Đầu năm 1960 cho đến nay). Các nước phương tây phục hồi và phát triển trở lại sau chiến tranh, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước các công trình nghiên cứu thái độ cũng được tiếp tục với nhiều ý tưởng, quan điểm mới. Ngoài việc kế thừa những nghiên cứu trước đó các nhà tâm lý học thời kì này còn tập trung xem xét nhiều khía cạnh khác của thái độ nữa, nhất là các vấn đề về vai trò, chức năng, cấu trúc, như các nghiên cứu của M.Rokeach (1968), T.M.Ostrom (1969), U.J.Mc.Guire (1969). Đặc biệt trong thời kì này xuất hiện các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của con người. Đó là thuyết “Tự nhận thức” của Daryl Bem. Và LeonFertinger. Học thuyết của Leon Festinger và Daryl Bem đã có ảnh hưởng khá lớn tới các nghiên cứu sau này. Không những thế các nhà nghiên cứu cũng đưa ra phương pháp nghiên cứu hình thành, thay đổi thái độ như phương pháp “đường ống giả vờ” cho phép đo các thái độ của con người do Edward Jones và Harold Sigall (1971) đề ra cùng “kỹ thuật lấn từng bước một” của Janathan Freedman và Scott Fraer (1966) Như vậy có thể thấy rằng trong suốt thời kì đầu tiên của thế kỉ 20 đến nay, ở phương tây có rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ và cùng với các nghiên cứu đó là các phương pháp để tiếp cận và làm sáng tỏ về hiện tượng tâm lý đặc biệt này. Bên cạnh những đạt được nó cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Theo Shikiew P.M hạn chế đó là sự bế tắc trong phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm, không lý giải được các mâu thuẫn giữa thái độ và hành vi, tách rời hai thái độ với hoàn cảnh xã hội và với hoạt động. Như vậy qua nghiên cứu của tác giả Shikhirev P.M, chúng ta có thể nhận thấy: Lịch sử nghiên cứu thái độ nói riêng và khoa học tâm lý nói chung, cũng trải 8
  9. qua những thăng trầm cùng với lịch sử phát triển của con người. Nghiên cứu của Shikhirev P.M có thể được xem là nghiên cứu vạch đường cho chúng ta khi muốn đi sâu vào nghiên cứu thái độ ở một thời kì cụ thể nào đó Cũng ở Liên Xô trước đây, ngoài Shikhirev P.M còn có hai tác giả được coi là có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tâm lý học hơn cả. Đó là D.N Uzantze với công trình nghiên cứu về “Thuyết tâm thế”, và V.A Iadov với nghiên cứu về “Thuyết định vị” Dựa vào thực nghiệm D.N Uzantze, đã đưa ra học thuyết tâm thế. Theo ông tâm thế chính là trạng thái trọn vẹn của chủ thể, sẵn sàng tri giác các sự kiện và thực hiện hoạt động theo một hướng xác định. Là cơ sở của tính tích cực chọn lọc và có định hướng của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự tiếp xúc giữa các nhu cầu và các tình huống thỏa mãn nhân cách, giúp cá nhân thích ứng với điều kiện môi trường. Trong thuyết tâm thế ông đã nghiên cứu thái độ ở khía cạnh hành vi của con người. Thái độ được thể hiện ở hành vi, sử dụng tâm thế để điều khiển hành vi. Tuy nhiên ông mới chỉ đề cập đến quá trình thực hiện hóa các nhu cầu sinh lí, mà không tính đến nhu cầu của con người, như vậy ông mới chỉ nghiên cứu thái độ ở mặt nổi bật của nó, tức là mặt hành vi và nghiên cứu của ông chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất của thái độ và kết quả sau những lần hành vi đó để lại. Tuy còn nhiều những hạn chế nhưng nghiên cứu của D.N Uzantze đã đóng vai trò quan trọng, đó là phương pháp luận khoa học cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu cụ thể của tâm lý học hiện đại. Dựa trên thuyết tâm thế của D.N Uzantze, V.A Iadov đã phát triển thành khái niệm tâm thế nhằm điều chỉnh hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân. V.A Iadov cho rằng con người là một hệ thống các định vị khác nhau rất phức tạp, và hành vi của con người được điều khiển bởi các tổ chức định vị này. Theo ông tâm thế chỉ là các định vị ở bậc thấp. Nó được hình thành khi có sự tiếp xúc giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng cần được thỏa mãn nhu cầu đó. ở bậc cao hơn các định vị càng trở nên phức tạp hơn được hình thành trên cơ sở 9
  10. các hoạt động giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ. Định vị được hình thành từ thấp đến cao, điều chỉnh hành vi cá nhân trong các điều kiện xã hội. V.A Iadov đã nghiên cứu thái độ ở một góc nhìn hoàn toàn mới. Nó đã thiết lập được mối quan hệ giữa cách tiếp cận hành vi cá nhân từ các góc độ khác nhau như trong nghiên cứu ở Tâm lý học đại cương, Tâm lý học xã hội… Tuy nhiên thiếu sót của V.A Iadov là đã không làm rõ được khái niệm “định vị là gì?”. Đồng thời cũng chưa chỉ ra được cơ chế diều chỉnh hành vi bằng các định vị trong các tình huống xã hội. Ngoài các tác giả và các công trình nghiên cứu chủ yếu như trên nghiên cứu vấn đề thái độ ở Liên Xô còn phải kể đến thuyết thái độ nhân cách của nhà tâm lý học V.N Miasev. Ông cho rằng “nhân cách là một hệ thống thái độ”. Theo V.N Miasev thì phản xạ chính là cơ sở sinh lý học của thái độ có ý thức của con người với hiện thực. V.N Miasev đã chia thái độ ra làm hai loại: Thái độ tích cực và thái độ tiêu cực. Cùng với các quá trình, các thuộc tính tâm lý thái độ là một trong những hình thức thể hiện tâm lý người. Tuy nhiên ông lại cho rằng các quá trình tâm lý như nhu cầu, thị hiếu, hứng thú, tình cảm, ý chí… đều là thái độ. Có thể thấy việc xếp ngang hàng quan hệ với xã hội chưa thỏa đáng. Cũng coi thuộc tính tâm lý của nhân cách là thái độ cũng chưa có cơ sở. Tuy vậy V.N Miasev vẫn được xem là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học theo quan điểm Macxit. V.N Miasev cũng đã dùng thuyết thái độ nhân cách để sử dụng trong y học. Gần đây khi nghiên cứu nhân cách như là một phạm trù cơ bản của tâm lý học, V.F.lômp nhà tâm lý học xô viết đã đề cập đến thái độ chủ quan của nhân cách, sự chế định của quan hệ xã hội đối với thái độ chủ quan thông qua hoạt động và giao tiếp. Nói tóm lại khi nghiên cứu thái độ các nhà Tâm lý học Liên Xô đã vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách đối với thái độ và nhu cầu. Trong điều kiện hoạt động của cá nhân. Coi thái độ như là một hệ thống từ đó lý giải hợp lý và khoa học và sự hình thành thái độ, vị trí, chức năng của thái độ trong quá trình điều chỉnh hành vi hoạt động của cá nhân. 10
  11. Ở Đức những công trình nghiên cứu về thái độ tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các nhà Tâm lý học xã hội như: Vnâyzơ, V. đorxtơ… ngoài những vấn đề truyền thống, các nhà Tâm lý học Đức còn đề cập tới kiểu định hình thái độ, cơ chế của thái độ, coi thái độ như là một thành tố của năng suất lao động tập thể. Như vậy, có thể thấy rằng trong suốt thời kỳ từ đầu thế kỉ XX cho đến nay, ở phương Tây, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ và cùng với nó cũng xuất hiện nhiều phương pháp nghiên cứu mới về hiện tượng tâm lý đặc biệt này. 1.1.2. Ở Việt Nam. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam thường gắn với các hoạt động cụ thể như thái độ trong học tập, thái độ trong nghề nghiệp… Những nghiên cứu không còn mang tính chung chung, trừu tượng nữa mà nghiên cứu thái độ nó được cụ thể hóa, thể hiện trên các mặt cụ thể, các khía cạnh khác nhau của thái độ như xúc cảm, tình cảm, hứng thú… và vai trò của nó đối với hoạt động thực tiễn. “tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ giúp con người đạt được kết quả của nhận thức”. (Nguyễn Quang Uẩn) Khi nghiên cứu các thành tựu của Tâm lý học thế giới và thực tiễn Tâm lý học nước nhà, các nhà Tâm lý học Việt Nam đã xác định một số quan niệm cơ bản về vị trí, vai trò của thái độ trong quá trình thực hiện hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập. Mục tiêu của giáo dục là hình thành ở người học có đầy đủ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và là một trong những biểu hiện của động cơ học tập. Thái độ hoạt động là một bộ phận cấu thành, đồng thời là một thuộc tính trọn vẹn của ý thức tham gia hoạt động của chủ thể, là yếu tố quy định tính tự giác, tích cực hoạt động của chủ thể và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương ứng. Trong mối tương quan: Nhận thức, thái độ, hành động thì lĩnh hội tri thức, đóng vai trò cơ sở, có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh soi sáng cho thái độ, hành vi. Sự hình thành động cơ hoạt động của học sinh, sinh viên chịu sự chi phối của nhiều nhân tố trong đó có quan niệm, thái độ của gia đình đối với việc 11
  12. học tập của con cái, thái độ, sự đánh giá của xã hội đối với việc học tập nói riêng và các hoạt động khác nói chung. Từ những quan niệm cũng như thực tiễn về việc nghiên cứu thái độ ở nước ta có thể kể ra một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chúng tôi nghiên cứu như: Tác giả - TS Nguyễn Kim Dung “tìm hiểu nhận thức và thái độ của sinh viên về định hướng tương lai” nội dung đề tài xoay quanh vấn đề nhận thức, thái độ của sinh viên về định hướng tương lai. Tác giả - sinh viên Lê Minh Tiến lớp 05 X1- Đại Học Văn Hiến - Hà Nội “thái độ của học sinh, sinh viên đối với ngành giáo dục hiện nay” đề tài xoay quanh vấn đề thực trạng thái độ của học sinh, sinh viên đối với ngành giáo dục trước những vấn đề bê bối và bất cập của ngành giáo dục trong thời gian gần đây. Tác giả - sinh viên Vũ Thị Thu Hiền lớp 06 CTL trường Đại học Sư Phạm - Đại học Đà Nẵng với đề tài “thái độ của sinh viên trường đại học sư phạm Đại học Đà Nẵng đối với vấn đề sống thử” Tác giả Tạ Nhật Ánh với bài viết đôi điều suy nghĩ về thái độ của sinh viên đối với việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (năm 2006). Tác giả - sinh viên Lưu Thị Lan Anh lớp 06 XH khoa khoa học xã hội nhân văn trường Đại học Tôn Đức Thắng với đề tài “thái độ của sinh viên trường đại học Tôn Đức Thắng đối với việc thực hiện nếp sống văn minh”. Tóm lại ở trên thế giới và Việt Nam các công trình nghiên cứu về thái độ có nhiều nhưng nghiên cứu về thái độ của sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội vẫn còn chưa được triển khai sâu rộng, nghiên cứu đang còn ở mức độ riêng lẻ, tách bạch các tệ nạn xã hội. Các nhà nghiên cứu bước đầu mới chỉ khái quát các vấn đề như thái độ, định nghĩa thái đô, thái độ học tập của sinh viên….. các biện pháp giúp nâng cao thái độ cho sinh viên. Ít đề cập đến vấn đề thái độ của sinh viên đối với vấn đề tệ nạn xã hội nói chung (đề cập riêng lẻ) và thái độ của sinh viên tâm lý giáo dục trường đại học Hồng Đức nói riêng chưa đề cập đến. Do đó vấn đề chúng tôi chọn để nghiên cứu là mới mẻ. 1.2. Một số khái niệm công cụ. 12
  13. 1.2.1 Các vấn đề lý luận về thái độ 1.2.1.1. Định nghĩa về thái độ. Có nhiều định nghĩa khác nhau khi bàn về thái độ. Theo Allport “Thái độ là trạng thái của hệ thần kinh, là sự sẵn sàng phản ứng, là một trạng thái có tổ chức, được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ và nó điều khiển cũng như ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân.” Năm 1971 nhà Tâm lý học người Mỹ H.C Triandis đã đưa ra một định nghĩa khác về thái độ. Ông cho rằng “Thái độ là tư tưởng được tạo nên từ các xúc cảm, tình cảm. Nó gây tác động đến hành vi nhất định, ở một giai cấp nhất định, trong những tình huống xã hội nhất định. Thái độ của con người bao gồm những điều mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối tượng, cũng như cách sử dụng của họ đối với đối tượng đó.” Trên cơ sở phân tích định nghĩa của Triandis và Allport, Marten đã đưa ra một định nghĩa “Thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống xã hội, nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ (nhận thức), xúc cảm và hành vi. Thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi vì thái độ được xác định bởi tính thống nhất bên trong hành vi đó.” Còn gần đây, James, W. Kalat đưa ra định nghĩa: “Thái độ là sự thích hay không thích một sự vật hoặc một người nào đó của cá nhân, từ đó có ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi ứng xử với sự vật hay con người đó”. Nhà tâm lý học John Traven cũng định nghĩa: “Thái độ là cách cảm xúc, tư duy và hành động tương đối lâu dài đối với sự việc hay con người đó” Trong từ điển tiếng Việt, Thái độ được định nghĩa là: “Cách nhìn nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó. Nói tóm lại, đã có nhiều các định nghĩa khác nhau về thái độ. Nhưng có thể nêu ra định nghĩa về thái độ thông dụng hiện nay, đó là:Thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động của con người đối với đối tượng theo một hướng nhất định, được 13
  14. bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể. 1.2.1.2. Cấu trúc của thái độ. Trong từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên có nhấn mạnh: “tâm thế xã hội đã được củng cố, có cấu trúc phức tạp bao gồm các thành phần: nhận thức, xúc cảm, hành vi”. Theo định nghĩa của A.Kossakowky và J.Compcher vào năm 1975 thì cấu trúc thái độ bao gồm có: niềm tin, lý tưởng, hứng thú, thái độ xã hội. Tuy nhiên các nhà tâm lý học vẫn đồng ý với cấu trúc 3 thành phần của thái độ do Smith đưa ra. Theo ông thái độ bao gồm: tình cảm, nhận thức, và hành động của cá nhân với đối tượng Nói tóm lại cơ chế hình thành thái độ bao gồm 3 yếu tố: nhận thức, xúc cảm, và hành vi: Trước hết nhận thức là quan điểm, niềm tin hay những ý kiến cụ thể về một đối tượng nào đó của thái độ. Xúc cảm (tình cảm)là những rung động biểu thị thái độ riêng của con người đối với hiện thực khách quan, có liên quan đến việc thỏa mãn hay không thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của bản thân. Hành vi là những biểu hiện ra bên ngoài hay xu hướng hành động của cá nhân với đối tượng của thái độ. Trong mối tương quan giữa nhận thức – thái độ, xúc cảm, và hành vi thì lĩnh hội tri thức là khâu trung tâm của mọi hoạt động. Điều này cũng giống với quan niệm của các nhà tâm lý học Việt Nam như Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Quang Uẩn, khi nghiên cứu cấu trúc của thái độ đều cho rằng Thái độ có cấu trúc 3 mặt là Nhận thức, hứng thú, và hành vi của cá nhân. Thái độ có chức năng thích nghi, biểu hiện giá tri, tiết kiệm trí lực, hiểu biết, tự vệ, thỏa mãn nhu cầu và nhu cầu điều chỉnh hành vi. 1.2.1.3. Đặc trưng của thái độ. Thái độ là một thuộc tính nhân cách nó bao gồm các đặc trưng sau: 14
  15. - Có sự thống nhất: Thái độ của con người là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các mặt: nhận thức, hứng thú, hành vi. Các mặt này có liên quan với nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất chứ không phải là một phép cộng trừ đơn giản của các mặt riêng lẻ. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá thái độ của con người với một đối tượng nào đó chúng ta cần xem xét chúng trong mối liên hệ với các mặt của thái độ. - Có tính không ổn định: Dưới tác động của xã hội và giáo dục thì thái độ của con người cũng có thể thay đổi, nó có thể thay đổi theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy theo khả năng nhận thức của cá nhân và tác động của xã hội. Tuy nhiên, thái độ thay đổi từ từ chứ không thay đổi ngay tức khắc khi có tác động. - Có tính chân thực: Thái độ của con người biểu hiện rõ ra bên ngoài thông qua các hành vi, hành động, thái độ của con người như thế nào thì hành vi, hành động của con người như thế đó, con người không thể che dấu được thái độ của mình, như vậy thông qua hành vi, hành động chúng ta có thể biết được thái độ của con người. 1.2.1.4. Quan hệ của thái độ với các thuộc tính của nhân cách: Thái độ và ý thức cá nhân. Trong tâm lý học, ý thức là: “Hình thức phản ánh tâm lý bậc cao, đặc trưng của loài người, là năng lực nhận thức được cái phổ biến và cái bản chất trong hiện thực khách quan, do đó đồng thời là năng lực định hướng, điều khiển một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội”... cấu trúc ý thức bao gồm 3 thành phần cơ bản: Nhận thức, thái độ và sự năng động của ý thức. Thái độ là hình thức, là một thành phần của ý thức, biểu hiện tính tích cực, mối liên hệ trở lại của ý thức với hiện thực. Chức năng của ý thức là định hướng điều chỉnh hoạt động. Như vậy, quan hệ giữa thái độ và ý thức là quan hệ hữu cơ giữa cái bộ phận và tổng thể. Thái độ phản ánh các hiện tượng của thế giới khách quan một cách có chọn lọc, đồng thời là hình thức tác động trở lại của con người 15
  16. đối với hiện thực. Dựa vào mối quan hệ cùng loại giữa ý thức và thái độ có thể thông qua ý thức để nghiên cứu thái độ và ngược lại. Thái độ với nhu cầu. Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người mà con người cần phải thỏa mãn để tồn tại và phát triển trong điều kiện xã hội nhất định của con người, là động lực đầu tiên thúc đẩy hoạt động,là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động của con người. Nhu cầu có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất: Đó là điều kiện bên trong, một yếu tố bắt buộc phải có của hoạt động. Theo nghĩa thứ hai thì nhu cầu là cái hướng dẫn, là điều kiện hoạt động chủ quan của chủ thể trong thế giới đối tượng khách quan. Nhu cầu là tiền nền tảng của hành động, là nguồn gốc của tính tích cực cá nhân, kích thích cá nhân hành động để thỏa mãn nhu cầu thông qua quá trình thỏa mãn nhu cầu mà con người củng cố được các thành phần của thái độ như: Nhận thức,cảm xúc cũng như hành vi đối với đối tượng để thỏa mãn nhu cầu. Như vậy thái độ và nhu cầu có mối quan hệ khăng khít với nhau. Thông qua các biểu hiện của nhu cầu chúng ta có thể dự báo được về thái độ của nhân cách cá nhân và ngược lại. Thái độ và hứng thú. Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng nào đó. Có ý nghĩa trong đời sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm. Giữa thái độ và hứng thú có mối quan hệ chặt chẽ thống nhất với nhau. Hứng thú là một dạng thái độ đặc biệt và thông qua hứng thú thái độ của con người được biểu hiện. Như vậy hứng thú có vai trò quan trọng, nó làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức và hoạt động trí tuệ, làm tăng sức làm việc và làm nảy sinh khát vọng hoạt dộng và hành động sáng tạo để chiếm lĩnh đối tượng đó. Hứng thú càng ổn định thì thái độ càng được củng cố, con người càng ham muốn tác động thường xuyên để chiếm lĩnh đối tượng. Thái độ với động cơ tham gia hoạt động phòng chống tệ nạn của sinh viên. Từ điển tâm lý học đã xác định động cơ có những nghĩa sau: 16
  17. Là các kích thích hoạt động có liên quan đến việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể và định hướng tính tích cực đó. Là đối tượng (vật chất hay tinh thần), kích thích và qui định sự lựa chọn hướng hoạt động và vì nó mà hoạt động được thực hiện. Là nguyên nhân (được ý thức) là cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi cá nhân. Tâm lý học Macxit cho rằng: cơ chế cơ bản hình thành động cơ là thông qua việc thực hiện nhu cầu trong quá trình tìm kiếm và biến đối tượng của nhu cầu thành động cơ (Lêônchiev A.N, Bô-Giô-vích N.I). Lêônchiev còn nói rõ rằng: “động cơ là đối tượng của nhu cầu). Chức năng của động cơ là thúc đẩy định hướng hoạt động, chức năng tạo ý. Nhờ có động cơ mà con người tiếp cận đối tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu định hướng tư duy, tình cảm và hành động của mình. Chính vì thế cùng với nhu cầu, động cơ là tiền đề điều kiện hình thành thái độ đối với hiện thực. Vì động cơ là sản phẩm của nhu cầu, là nhu cầu đã được nhận thức. Do đó có thể hình dung các mối quan hệ dưới các thành phần theo sơ đồ sau: Nhu cầu – động cơ – thái độ - đối tượng. Thái độ được thể hiện rõ nét nhất trong quá trình đấu tranh động cơ. Nhà Tâm lý học Ba Lan Obukhovxki, một trong những người nghiên cứu động cơ hoạt động cá nhân, cho rằng khái niệm “tâm thế xã hội” (thái độ) có thể trả lời 2 câu hỏi xuất hiện trong quá trình lựa chọn đấu tranh động cơ là:Tại sao trong điều kiện nhất định con người lại hành động theo cách xác định. Cái gì đã chỉ đạo họ lựa chọn chính động cơ đó ? Như vậy, thái độ biểu hiện trực tiếp của động cơ, không phải ngẫu nhiên mà có tác giả đồng nhất động cơ với thái độ. Để phân biệt thái độ và động cơ các nhà tâm lý học cho rằng thái độ có liên quan nhiều hơn đối với đối tượng, sự vật, hiện tượng có trong môi trường, còn động cơ liên quan đến hoạt động. Chúng ta thường nói động cơ hoạt động, trong khi đó lại nói thái độ với kết quả hoạt động chứ không nói ngược lại. 17
  18. Ngoài các yếu tố kể trên thái độ có mối quan hệ với nhiều các thuộc tính tâm lý khác nữa, tùy theo mục đích nghiên cứu mà chúng ta xét các mối quan hệ đó thông qua biểu hiện của thái độ trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, mỗi đối tượng cụ thể. 1.2.2. Sinh viên Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta, hai tiếng Sinh viên luôn gợi lên một cái gì trong sáng, tốt đẹp. Đó là thế hệ còn quá sớm để được coi là từng trải, dày dạn, nhưng cũng quá muộn để bị coi là non nớt, thơ ấu. Thế hệ sinh viên đứng giữa hai cái đó: Họ nhìn đời một cách nghiêm trang mà không mất vẻ trẻ trung, hồn nhiên, họ là thế hệ của học hỏi, rèn luyện, ước mơ. Họ là tuổi đẹp của một con người, thế hệ đẹp của một thời đại. Theo Kamila (CH Séc, hiện là SV) Một SV đã, đang và sẽ luôn luôn là người học hỏi về cuộc sống, hành vi ứng xử, nhu cầu, hy vọng, thành công và thất bại của con người từ bắt đầu của lịch sử đến thời điểm hiện tại, như một câu nói: "Hãy nghĩ về nguồn gốc của bạn, bạn không được tạo ra để sống chỉ như một động vật, mà là để theo đuổi những phẩm chất và kiến thức". Đó cũng là vận mệnh của con người: học và học mãi, cố không lặp lại sai lầm và để trở thành những người xây dựng một thế giới mới, trong đó mọi người đều sống trong hoà bình và hạnh phúc. Theo Camelia (SV khoa Tâm lý học, Rumani) SV là tất cả những người cần học cái gì đó và không bao giờ ngại bỏ công sức để theo đuổi tri thức. Theo Manuel Benito (Tây Ban Nha) Con người là SV suốt cả cuộc đờii mình: học để học hỏi/biết (study to learn), và học hỏi chính là sống. Về SVVN, theo tôi, đó là thế hệ đang cố gắng hết mình để xây lại xứ sở của họ đã nhiều nǎm bị chiến tranh gây thương tích đầy thân thể. Tôi không biết nhiều về VN, nhưng tôi vẫn nhớ những bức ảnh toàn những nỗi đau và nước mắt của quá khứ ở đất nước này. 18
  19. Nói tóm lại có nhiều quan điểm khác nhau về sinh viên nhưng có thể chung quy lại sinh viên chính là một người chính thức tham gia vào học tập, đặc biệt là ghi danh vào một trường đại học, cao đẳng và theo học chương trình đó. 1.2.3. Tệ nạn xã hội. 1.2.3.1. Định nghĩa. Tệ nạn xã hội là một trong những biểu hiện của sai lệch xã hội. Vậy thế nào là sai lệch xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, trước hết chúng ta cần hiểu về chuẩn mực xã hội. Chuẩn mực xã hội là tập hợp các yêu cầu hoặc sự mong đợi mà cộng đồng xã hội (nhóm tổ chức, giai cấp, xã hội) đưa ra nhằm tạo lập các khuôn mẫu hành vi và hành động cho các thành viên của mình. Chuẩn mực xã hội có thể được biểu hiện dưới dạng ngôn ngữ (pháp luật, nội quy, hương ước) hay bất thành văn. Khoa học xã hội chia chuẩn mực xã hội thành: - Chuẩn mực bắt buộc: phổ biến cho toàn xã hội và gắn với nó là sự trừng phạt công khai. - Chuẩn mực mong đợi: phổ biến cho toàn xã hội nhưng mang tính đặc thù cho các nhóm xã hội. - Một khái niệm nữa chúng ta cần hiểu về sai lệch xã hội: Sai lệch xã hội là hành vi của cá nhân hoặc hành vi của nhóm người nào đó không phù hợp với những gì được coi là bình thường của cộng đồng xã hội, có nghĩa là hành vi đó phần nào hoặc đi chệch những gì mà số đông những người khác chờ đợi hoặc mong muốn của họ trong những hoàn cảnh nhất định. Sai lệch xã hội có thể được hiểu như là sự vi phạm các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được chấp nhận của một nhóm xã hội hay của một xã hội nhất định. Hành vi sai lệch xã hội phá vỡ bức tranh thực tại, trái với sự mong đợi của cộng đồng, đối lập với những hành vi của những người bình thường. Có thể chia sai lệch xã hội làm 2 loại: 19
  20. Sai lệch tích cực là những hành vi thiếu bình thường so với chuẩn mực đạo đức xã hội thực tế nhưng nó diễn ra theo hướng thực hiện những khuôn mẫu, tác phong, lý tưởng mà đa số con người trong xã hội đang muốn hướng tới. Sai lệch tiêu cực là những hành vi không được tán thành trong thực tế xã hội, nó thường là những khuôn mẫu tác phong dưới chuẩn mực văn hóa, nghĩa là thấp hơn mẫu trung bình của thực tế xã hội, những hành vi như thế này thường bị xã hội lên án. Dưới góc độ pháp lý, ta có thể hiểu tệ nạn xã hội như sau: Tệ nạn xã hội là hiện tượng tiêu cực có tính lịch sử cụ thể biểu hiện bằng những hành vi vi phạm pháp luật và sai lệch các chuẩn mực, có tính lây lan, phổ biến gây nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong pháp luật hình sự, pháp luật hành chính và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Với quan niệm này, tệ nạn xã hội có 4 đặc trưng: - Tệ nạn xã hội là những hành vi vi phạm pháp luật có tính phổ biến. - Tệ nạn xã hội là những hành vi sai lệch có tính phổ biến đối với các chuẩn mực đạo đức xã hội (đạo đức lối sống, tập quán tiến bộ). - Tệ nạn là những hiện tượng nguy hiểm cho xã hội, lây lan nhanh, gây tâm trạng xã hội nặng nề. - Tệ nạn xã hội phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế xã hội và tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận. Đặc trung này chỉ ra rằng pháp luật cần bám sát thực tiễn để có nội dung điều chỉnh phù hợp. Tóm lại những nội dung trên ta có thể hiểu: Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi làm sai lệch chuẩn mực đạo đức của con người khiến người ta lao vào con đường phạm pháp gây vi phạm đạo đức và pháp luật, để lại hậu quả xấu cho con người và đời sống xã hội. Những tệ nạn xã hội xảy ra khi có mâu thuẫn, cạnh tranh giữa người với người trong cùng một cộng động vì cuộc sống sinh nhai của mình. Vì vậy tệ nạn xã hội cũng đang là một vấn đề làm nhức nhối các nhà chức trách và cần sớm được loại bỏ. 1.2.3.2. Các tệ nạn xã hội * Tệ nạn ma túy 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2