Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG XUẤT KHẨU GẠO<br />
VIỆT NAM<br />
Phạm Thị Thanh Hà1 và Phạm Hà Phương2<br />
1<br />
<br />
ThS. Khoa Quản trị Nhân lực, Trường Đại học Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh<br />
ThS. Khoa Quản trị Nhân lực, Trường Đại học Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
2<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 08/10/13<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
12/11/13<br />
Ngày chấp nhận đăng:<br />
30/07/14<br />
Title:<br />
Several solutions for the<br />
improvement of<br />
competitiveness competence in<br />
Vietnamese’s rice export<br />
Từ khóa:<br />
Năng lực cạnh tranh, lúa gạo,<br />
xuất khẩu<br />
Keywords:<br />
Competiteness competence,<br />
rice, export<br />
<br />
ABSTRACT<br />
In the commodity export of Vietnam, rice is always played as key agricultural<br />
commodities, with contributions billions of dollars each year in total export<br />
value. It's not only contributing to the overall growth of the economy, but also<br />
gradually affirmed Vietnam's position on the international rice market. However,<br />
it has not still been commensurate with the value and potential of rice from<br />
Vietnam. In addition, the fact is that in recent years although export rice<br />
increased sharply, brought about many records for Vietnam but lower prices<br />
than other rice exporting countries (Thailand, India, Pakistan). So what is the<br />
cause and solution to enhance competitiveness and promote export of rice<br />
products in Vietnam? That's what the author wanted to mention and exchange in<br />
this article.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thì gạo luôn giữ vai trò là<br />
mặt hàng nông sản chủ lực với sự đóng góp mỗi năm hàng tỷ USD trong tổng giá<br />
trị xuất khẩu, không những góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của nền kinh<br />
tế, mà còn dần khẳng định được vị thế của Việt Nam trên thị trường gạo quốc tế.<br />
Nhưng những con số mà mặt hàng gạo tạo ra được trong các năm qua vẫn chưa<br />
tương xứng với giá trị và tiềm năng. Ngoài ra, còn một thực tế nữa là mặc dù<br />
mấy năm gần đây xuất khẩu gạo tăng mạnh, đã mang về nhiều kỷ lục cho Việt<br />
Nam nhưng giá lại thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác (Thái Lan, Ấn<br />
Độ, Pakistan). Vậy đâu là nguyên nhân và giải pháp nào để nâng cao khả năng<br />
cạnh tranh cũng như đẩy mạnh xuất khẩu của mặt hàng lúa gạo Việt Nam? Đó<br />
cũng là điều mà tác giả muốn đề cập và trao đổi trong bài viết này.<br />
<br />
thiếu linh hoạt, chính vì thế việc xuất khẩu gạo<br />
của Việt Nam còn kém hiệu quả và thua thiệt<br />
nhiều. Số lượng xuất khẩu của ta nhiều song lại<br />
phải bán với giá thấp vì chưa hấp dẫn với khách<br />
hàng quốc tế. Bên cạnh đó lợi ích của người nông<br />
dân sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu không được<br />
đảm bảo, giá trị gia tăng từ sản phẩm cuối cùng<br />
không có sự phân bổ công bằng giữa các chủ thể<br />
tham gia sản xuất kinh doanh lúa gạo, trong đó<br />
người nông dân thường bị thua thiệt. Điều đó<br />
khiến cho hiệu quả của xuất khẩu cũng như năng<br />
lực cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam<br />
còn thấp, thiếu tính bền vững.<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở trên<br />
80 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên điều đó<br />
không có nghĩa xuất khẩu gạo của nước ta đã phát<br />
triển vững chắc và đạt hiệu quả cao. Có nhiều vấn<br />
đề nổi cộm trong xuất khẩu gạo như: chất lượng<br />
gạo còn thấp, chênh lệch giá xuất khẩu của Việt<br />
Nam và thế giới còn lớn. Khả năng cạnh tranh của<br />
Việt Nam trên thị trường thế giới chủ yếu dựa vào<br />
giá thấp, thị trường không ổn định. Hệ thống thu<br />
gom xuất khẩu còn yếu kém, đơn lẻ nên chưa phù<br />
hợp và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Quản lý<br />
điều hành của các Bộ, ngành liên quan còn chậm,<br />
52<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
Thiên nhiên: Việt Nam hàng năm phải gánh chịu<br />
hơn 10 cơn bão lớn nhỏ khác nhau và hậu quả<br />
thiệt hại rất nặng nề. Các trận hạn hán cũng<br />
thường xảy ra ở giữa mùa hay gần cuối vụ mùa ở<br />
những nơi thiếu hệ thống thuỷ lợi tốt. Vì nhiều<br />
nơi trong nước chưa có đủ hệ thống tưới tiêu tốt<br />
nên hạn hán hay lũ lụt giữa mùa hay cuối vụ lúa<br />
thường xảy ra. Phèn mặn ở những vùng đất khó<br />
khăn như vùng ven biển bị nước mặn lấn át. Sâu<br />
bệnh luôn hoành hành làm giảm đáng kể sản<br />
lượng thu hoạch<br />
<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu,<br />
tác giả đã thu thập và sử dụng những tài liệu, số<br />
liệu liên quan đến xuất khẩu gạo từ năm 2008 đến<br />
nay. Tác giả sử dụng phương pháp luận: Phép<br />
biện chứng duy vật, các quan điểm, chủ trương<br />
của Đảng, chính sách của nhà nước về xuất khẩu<br />
gạo, đồng thời kế thừa các kết quả nghiên cứu có<br />
liên quan đến bài viết (các bài báo, tạp chí khoa<br />
học về xuất khẩu gạo) và các phương pháp nghiên<br />
cứu cụ thể: Trừu tượng hóa khoa học, kết hợp<br />
logic với lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so<br />
sánh, thống kê.<br />
<br />
Cung cấp vật tư và tín dụng nông nghiệp: Khả<br />
năng sản xuất phân hoá học của nước ta còn chưa<br />
đủ, đặc biệt là phân ure còn phải nhập khẩu hàng<br />
năm; Về bảo vệ mùa màng: bình quân dùng thuốc<br />
sát trùng tại Việt Nam còn kém so với các nước<br />
khác nhưng cũng có một số vùng sử dụng thuốc<br />
quá độ; Hạt giống: Do phần đa người nông dân<br />
vẫn còn quen với tập quán “tự để giống” mà<br />
không theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp 1<br />
là phải dùng giống xác định nên phẩm chất hạt<br />
giống thường thấp; Tín dụng: đa số nông dân còn<br />
quá nghèo, không đủ khả năng kinh tế để mua đầy<br />
đủ vật tư nhằm áp dụng đúng kỹ thuật.<br />
<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
3.1 Tổng quan về lúa gạo Việt Nam những năm<br />
gần đây<br />
3.1.1 Thuận lợi<br />
Lãnh thổ nước ta nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi<br />
cho việc liên hệ, giao thương và xây dựng những<br />
trục giao thông có ý nghĩa quốc tế với nhiều nước.<br />
Ngoài ra, Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa với<br />
đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều<br />
nắng, lắm mưa, độ ẩm trung bình cao, là điều kiện<br />
rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài thực<br />
vật, là điều kiện tốt để xen canh, gối vụ, tăng<br />
nhanh vòng quay ruộng đất, thâm canh tăng năng<br />
suất. Miền khí hậu Nam rất thích hợp cho việc<br />
trồng lúa gạo. Toàn bộ quỹ đất đai của nước ta có<br />
trên 33 triệu ha (đứng thứ 58 trên thế giới) với<br />
nhiều loại đất khác nhau là nguồn lực tự nhiên<br />
phong phú và đa dạng giúp phát triển đa ngành<br />
nghề nông nghiệp.<br />
<br />
Ruộng đất phân mảnh: Ruộng đất thường bị phân<br />
chia thành từng mảnh nhỏ do đất hẹp và người<br />
đông nên gây khó khăn cho vấn đề hiện đại hoá và<br />
cải thiện hiệu năng ngành canh tác lúa, nhất là làm<br />
kém đi hiệu suất của lao động và vốn đầu tư trong<br />
nước<br />
Ảnh hưởng môi trường: Phân hoá học được sử<br />
dụng ngày càng nhiều, nhưng ảnh hưởng đến môi<br />
sinh chưa được báo cáo trong canh tác lúa ở ruộng<br />
nước; Chất khí nhà kính và chất thải trong nông<br />
nghiệp làm nguy hại đến môi trường.<br />
<br />
Việt Nam là một nước đông dân và có tỷ lệ gia<br />
tăng tự nhiên của dân số qua các thời kỳ là rất<br />
cao, khiến cho tốc độ tăng nguồn lao động cũng<br />
rất cao. Dẫn đến nguồn lao động dồi dào phục vụ<br />
cho ngành nông nghiệp.<br />
<br />
Chất lượng nguồn lao động: Nguồn nhân lực nông<br />
nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do<br />
trình độ chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật<br />
lạc hậu; Mặt khác, lao động nước ta do thu nhập<br />
thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày<br />
chưa đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức<br />
khỏe của nguồn lao động cả nước nói chung và<br />
của nông thôn nói riêng là chưa tốt.<br />
<br />
3.1.2 Khó khăn<br />
Lợi tức nông dân và hạ tầng cơ sở nông thôn:<br />
Hiện nay phần lớn đầu tư nước ngoài chỉ nhằm<br />
vào dịch vụ, du lịch, khách sạn, công nghiệp nhẹ<br />
và dầu khí. Còn đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm<br />
11%. Với 1 hecta lúa, một gia đình nông dân 6<br />
người thu lợi tức được 570 USD ở Đồng bằng<br />
sông Cửu Long, khoảng 95 USD/người cho mỗi<br />
vụ lúa. Ở Đồng bằng sông Hồng, mỗi người thu<br />
hoạch lợi tức độ 169 USD/1ha/1 vụ.<br />
<br />
3.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của lúa<br />
gạo Việt Nam hiện nay<br />
3.2.1 Thực trạng xuất nhập khẩu gạo<br />
Sản lượng và kim ngạch<br />
53<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
Sau hơn 20 năm liên tiếp xuất khẩu gạo trên quy<br />
mô lớn, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước<br />
xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới (chỉ sau Thái<br />
Lan) và có lúc đã đứng đầu thế giới (2012) với<br />
mức đóng góp gần 92 triệu tấn và mức bình quân<br />
<br />
4,5 triệu tấn/năm cho thị trường gạo thế giới. Xuất<br />
khẩu gạo tăng về lượng, nhưng giá trị lại không<br />
tăng hoặc tăng ở tốc độ không tương xứng (Bảng<br />
1, Hình 1).<br />
<br />
Bảng 1. Xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2013<br />
Năm<br />
2008<br />
2009<br />
2010<br />
2011<br />
2012<br />
6/2013<br />
<br />
Khối lượng gạo xuất khẩu (triệu tấn)<br />
4,679<br />
6,053<br />
6,754<br />
7,105<br />
7,72<br />
2,858<br />
<br />
0,000<br />
1,374<br />
0,701<br />
0,351<br />
0,615<br />
<br />
Trị giá FOB (tỷ USD)<br />
2,663<br />
2,464<br />
2,912<br />
3,507<br />
3,45<br />
1,241<br />
<br />
0,000<br />
-0.199<br />
0,448<br />
0,595<br />
-0,057<br />
<br />
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA)<br />
<br />
cao của Việt Nam không nhiều và chủ yếu vẫn là<br />
loại gạo phẩm cấp trung bình. Trong tỷ trọng xuất<br />
khẩu gạo năm 2001 thì gạo chất lượng cao (5%<br />
tấm) chiếm 25%, gạo tấm 25% chiếm 32%, gạo<br />
100% tấm chiếm 5%. Đến năm 2010, tỷ trọng<br />
gạo 5% tấm cũng chỉ tăng lên khoảng 30%, gạo<br />
7%-10% tấm chiếm khoảng 8%, các loại gạo 15%<br />
tấm và 25% tấm chiếm tỷ trọng lớn nhất tới trên<br />
55% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2012, Việt Nam<br />
đã đẩy mạnh được xuất khẩu gạo cao cấp với tỷ lệ<br />
chiếm hơn 46%. Gạo phẩm cấp thấp chỉ chiếm<br />
hơn 11%.<br />
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA)<br />
<br />
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam<br />
<br />
Hình 1. Khối lượng và trị giá FOB của gạo xuất khẩu<br />
từ năm 2008 đến hết 6/2013<br />
<br />
Việt Nam đã mở rộng thị trường ra trên 80 quốc<br />
gia và vùng lãnh thổ. Nhìn chung, cho đến nay thị<br />
trường gạo của Việt Nam đã có sự phát triển đáng<br />
kể, không những về chiều rộng mà còn theo chiều<br />
sâu (Bảng 2).<br />
<br />
Cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu<br />
Trong những năm qua, chất lượng gạo xuất khẩu<br />
của Việt Nam tuy đã được cải thiện, song vẫn<br />
thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo chính trên<br />
thế giới. Hiện các loại gạo xuất khẩu phẩm cấp<br />
Bảng 2. Xuất khẩu gạo của Việt Nam mùa vụ 2011/2012<br />
ĐVT: tấn<br />
5%<br />
Châu Á<br />
2.684.815<br />
Châu Phi 821.826<br />
Châu Âu và39.828<br />
các<br />
nước<br />
CIS<br />
Châu Mỹ 32.014<br />
Châu Úc<br />
19.235<br />
Tổng<br />
3.597.718<br />
<br />
10%<br />
<br />
15%<br />
<br />
25%<br />
<br />
100%<br />
<br />
Glutinous<br />
<br />
Jasmine<br />
<br />
24.699<br />
<br />
1.505.767<br />
75.947<br />
756<br />
<br />
793.317<br />
98.407<br />
-<br />
<br />
15.925<br />
365.610<br />
-<br />
<br />
309.434<br />
-<br />
<br />
433.707<br />
104.162<br />
24.564<br />
<br />
Các loại<br />
Tổng<br />
khác<br />
5.832 5.748.797<br />
52.356 1.518.308<br />
89.847<br />
<br />
24.699<br />
<br />
213.090<br />
1.795.560<br />
<br />
2.901<br />
894.625<br />
<br />
55.883<br />
437.418<br />
<br />
309.434<br />
<br />
25.445<br />
11.036<br />
598.914<br />
<br />
329.333<br />
30.271<br />
58.188 7.716.556<br />
<br />
Nguồn: Thông tin thương mại/ Tổng cục Hải quan Việt Nam/ Hiệp hội Lương thực Việt Nam<br />
<br />
Châu Á là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của<br />
Việt Nam, chiếm 77,7% tổng lượng gạo xuất khẩu<br />
của cả nước (tương đương 6 triệu tấn). Năm 2012,<br />
<br />
Indonesia, Phillipines và Malaysia vẫn tiếp tục là<br />
ba thị trường nhập khẩu truyền thống. Tiềm năng<br />
tiêu thụ gạo của các thị trường này vẫn còn khá<br />
<br />
54<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
lớn, tuy nhiên, theo USDA, trong vài năm tới,<br />
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang các thị<br />
trường này sẽ bị thu hẹp dần.<br />
<br />
thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo<br />
ở khu vực nông thôn nói riêng và trong cả nước<br />
nói chung; Xuất khẩu gạo đã đi cùng quá trình hội<br />
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ buổi đầu<br />
(1989) và góp phần quan trọng vào quá trình này.<br />
<br />
Theo báo cáo của USDA, Việt Nam đang muốn<br />
tiếp cận thị trường mới để đẩy mạnh xuất khẩu.<br />
Việt Nam đã xuất khẩu gạo đến Chile và Haiti<br />
trong năm ngoái và đang tìm cách mở rộng thị<br />
phần tại Tây bán cầu.<br />
<br />
3.2.2.2 Hạn chế và một số vấn đề đặt ra<br />
Trong thời gian vừa qua thị trường xuất khẩu gạo<br />
của Việt Nam vẫn là thị trường có sức mua thấp<br />
thiếu tính bền vững, chủ yếu là thị trường đòi hỏi<br />
phẩm cấp sản phẩm không cao (Châu Phi, Trung<br />
Quốc,…).<br />
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn kém,<br />
gạo 5% tấm, gạo nếp, gạo thơm mới chiếm<br />
khoảng 50%. Chất lượng gạo xuất khẩu thấp do<br />
một số nguyên nhân chính như: Do nông dân vẫn<br />
sử dụng những loại giống kém chất lượng (tự để<br />
giống); Sản phẩm gạo cấp thấp vẫn được thị<br />
trường tiêu thụ với số lượng lớn; Công nghệ chế<br />
biến lạc hậu, các công việc sau thu hoạch chưa đạt<br />
được tiêu chuẩn làm thất thoát một lượng gạo<br />
đáng kể.<br />
<br />
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam<br />
Giá trung bình xuất khẩu gạo mùa vụ 2010/2011<br />
vào khoảng 493 USD/tấn so với mức giá 479<br />
USD/tấn trong mùa vụ 2009/2010 và mức giá 406<br />
USD/tấn trong mùa vụ 2008/2009.<br />
Ngành gạo tuy có thể tự hào với kỷ lục mới về<br />
lượng gạo xuất khẩu, nhưng lại không thể vui bởi<br />
giá gạo giảm mạnh so với năm 2011. 11 tháng đầu<br />
năm 2012, giá gạo xuất khẩu bình quân giảm tới<br />
43,03 USD/tấn so với cùng kỳ của năm trước đó.<br />
Vì thế, dù lượng gạo xuất khẩu năm 2012 có thể<br />
cao hơn năm 2011 tới 500-600 ngàn tấn, nhưng<br />
giá trị thì lại chỉ bằng hoặc thấp hơn (giá trị xuất<br />
khẩu gạo năm 2011 là trên 3,5 tỷ USD). Do giá<br />
gạo xuất khẩu giảm mạnh nên lợi nhuận của các<br />
doanh nghiệp xuất khẩu gạo là khá thấp. Lợi<br />
nhuận của nông dân trồng lúa cũng giảm đi khá<br />
nhiều, vì giá lúa gạo hàng hóa trong nước giảm<br />
khá nhiều so với năm 2011. Với 3 loại gạo xuất<br />
khẩu chính của Việt Nam là gạo 5% tấm, 25%<br />
tấm và gạo thơm đều có giá thấp hơn so với các<br />
nước xuất khẩu gạo khác như Thái Lan, Ấn Độ,<br />
Pakistan.<br />
<br />
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo<br />
xuất khẩu của một số nước như Thái Lan, Ấn Độ,<br />
Mỹ vì thế kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu là do<br />
tăng khối lượng xuất khẩu.<br />
Những tồn tại nổi cộm của sản phẩm lúa gạo hiện<br />
nay:<br />
- Quan hệ giữa khối lượng và kim ngạch xuất<br />
khẩu<br />
Những con số tăng trưởng liên tục về khối lượng<br />
gạo xuất khẩu lại báo động một thực tế đáng lo về<br />
xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo năm 2011 và 2012<br />
không thoát khỏi căn bệnh “tích cực bán ra khi giá<br />
thấp, còn khi giá tăng thì co lại” như thực tế đã<br />
từng xuất hiện và gần đây nhất là năm 2008. Cụ<br />
thể, theo số liệu của VFA, nếu tính theo quý, khi<br />
giá xuất khẩu gạo quý II năm 2011 ở mức đáy 465<br />
USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu lại ở mức đỉnh<br />
2,053 triệu tấn, chiếm 28,9% tổng khối lượng xuất<br />
khẩu cả năm. Ngược lại, khi giá quý IV đạt đỉnh<br />
562 USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu chỉ đạt<br />
1,234 triệu tấn, chỉ chiếm 17,4%.<br />
<br />
3.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh lúa gạo<br />
VN hiện nay<br />
3.2.2.1 Những thành tựu<br />
Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được một số<br />
thành tựu nổi bật như: Thực hiện đường lối, chính<br />
sách đổi mới của Đảng và nhà nước, kinh tế nông<br />
nghiệp và nông thôn nước ta đã có những bước<br />
phát triển đáng kể; Khối lượng và kim ngạch xuất<br />
khẩu gạo không ngừng tăng lên; Kết cấu chủng<br />
loại gạo xuất khẩu đã có những cải thiện nhất định<br />
trong những năm gần đây; Thị trường xuất khẩu<br />
gạo không ngừng được mở rộng; Xuất khẩu gạo<br />
góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời<br />
kỳ khó khăn, tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã<br />
hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới;<br />
Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với phát<br />
triển nông nghiệp, nông thôn; Xuất khẩu gạo tạo<br />
<br />
- Lợi ích của người nông dân trồng lúa trong<br />
chuỗi giá trị xuất khẩu gạo<br />
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Luật và<br />
Nguyễn Đức Lộc thì tham gia vào chuỗi giá trị<br />
gạo xuất khẩu có 5 tác nhân: nông dân, thương lái,<br />
55<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 52 - 57<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
nông nghiệp, các cơ sở chế biến, bảo quản, vận<br />
chuyển,...<br />
Thứ hai: Đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo<br />
hướng tạo sản phẩm chất lượng cao<br />
<br />
nhà máy xay xát, nhà máy lau bóng, công ty xuất<br />
khẩu. Tổng giá trị gia tăng của 1 kg gạo xuất khẩu<br />
là 100% thì nông dân được 36,5%, thương lái<br />
18,9%, nhà máy xay xát 12,3%, công ty xuất khẩu<br />
28,9%. Như vậy, người nông dân trực tiếp sản<br />
xuất ra lúa gạo xuất khẩu chỉ được hưởng chưa<br />
đến 2/5 lợi ích thu được từ xuất khẩu gạo. Người<br />
nông dân là người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo<br />
nhưng lợi ích mà họ đang nhận được là quá thấp,<br />
trong khi đó thương lái và các công ty xuất khẩu<br />
thì chỉ cần những khâu đơn giản đã có thể thu lợi<br />
gấp nhiều lần.<br />
<br />
Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải tập trung<br />
vào một số hướng chính sau: Quy hoạch vùng sản<br />
xuất lúa gạo xuất khẩu với chất lượng cao đảm<br />
bảo cho sản phẩm đầu ra tiêu thụ nhanh chóng với<br />
mức giá có lợi; Cơ cấu lại giống lúa theo hướng<br />
nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng<br />
trong nước và xuất khẩu; Thực hiện chính sách<br />
bảo hiểm sản xuất lúa gạo để nông dân yên tâm<br />
đầu tư phát triển các loại lúa mới có chất lượng<br />
cao.<br />
<br />
Tính bền vững của xuất khẩu gạo<br />
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo nhằm thực<br />
hiện đa mục tiêu công: An ninh lương thực; Phát<br />
triển nông thôn và phát triển kinh tế - xã hội vùng;<br />
Thương mại.<br />
<br />
Thứ ba: Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và<br />
bảo quản<br />
Việt Nam đã bước vào giai đoạn hội nhập sâu và<br />
toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu hóa giai đoạn<br />
thực hiện nhiều hơn, sâu hơn các cam kết khi gia<br />
nhập WTO. Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đứng<br />
trước những cơ hội hết sức to lớn. Đó là sự mở<br />
rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ tiên<br />
tiến trong sản xuất và chế biến gạo<br />
<br />
- Cái bẫy của kỷ lục xuất khẩu gạo về khối lượng<br />
Năm 2009, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã vượt<br />
qua ngưỡng 6 triệu tấn/năm. Năm 2011, 2012 Việt<br />
Nam xuất khẩu gạo vượt ngưỡng 7 triệu tấn/năm.<br />
Tới hết tháng 10/2012, Việt Nam đứng đầu thế<br />
giới về khối lượng gạo xuất khẩu và vị trí này có<br />
thể duy trì hết 2012 thậm chí sang năm 2013. Tuy<br />
nhiên, chất lượng gạo xuất khẩu thấp dẫn tới giá<br />
thấp vì vậy kim ngạch xuất khẩu gạo không tăng<br />
tương xứng với sản lượng gạo xuất khẩu. Xét về<br />
kim ngạch xuất khẩu, trong số 3 quốc gia xuất<br />
khẩu gạo lớn nhất thế giới hiện nay (Việt Nam,<br />
Ấn Độ, Thái Lan) thì Việt Nam lại đứng ở hạng<br />
cuối cùng. Vì thế càng xuất khẩu nhiều gạo, tính<br />
bền vững càng không đậm nét. Vì vậy, Việt Nam<br />
không nên quá bận tâm với vị trí thứ nhất hay thứ<br />
nhì trong xuất khẩu gạo. Vì vị trí thứ nhất hay thứ<br />
nhì chưa chắc mang lại sự giàu có, sung túc mà có<br />
thể là một cái bẫy với nhiều ảo tưởng và mang lại<br />
nhiều rủi ro.<br />
<br />
Thứ tư: Xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu<br />
Một ví dụ điển hình về việc xây dựng thương hiệu<br />
lúa gạo mà Công ty Bảo vệ thực vật An Giang đã,<br />
đang làm là áp dụng mô hình cánh đồng mẫu lớn<br />
với sự liên kết chặt chẽ giữa người nông dân với<br />
nhà sản xuất, nhà khoa học đã mang lại hiệu quả<br />
cho các bên.<br />
Chuyên gia lúa gạo Đặng Đình Bích đã nói trên<br />
Đối thoại chính sách: “Để xây dựng thương hiệu<br />
lúa gạo bền vững thì thay vì với thương hiệu<br />
chung chung như hiện nay là gạo 5% tấm, 10%<br />
tấm… sẽ thay bằng thương hiệu gắn với một<br />
doanh nghiệp cụ thể để tạo nên tên tuổi cũng như<br />
chất lượng đặc trưng riêng cho từng loại gạo của<br />
từng doanh nghiệp”.<br />
<br />
3.3 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh<br />
của xuất khẩu gạo Việt Nam<br />
Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế và chính sách<br />
<br />
Thứ năm: Mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn<br />
chiều sâu<br />
<br />
Nhà nước phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách<br />
về đất đai; hoàn thiện chính sách tín dụng và đầu<br />
tư cho sản xuất lúa gạo. Bổ sung, đổi mới chính<br />
sách và giải pháp thị trường, chú trọng phát triển<br />
các ngành công nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản<br />
xuất, chế biến và lưu thông lúa gạo, như sản xuất<br />
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công cụ cơ giới<br />
<br />
Để đạt được mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu,<br />
tăng thị phần của gạo Việt Nam trên thị trường thế<br />
giới, nên thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị<br />
trường với các biện pháp như giữ vững thị trường<br />
quen thuộc và truyền thống như Malaysia,<br />
Singapore, Trung Đông, Nam Phi,… Đổi mới hơn<br />
<br />
56<br />
<br />