Xã hội học số 3 (55), 1996 19<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình không được đáp ứng<br />
và không sử dụng tránh thai ở Việt Nam<br />
<br />
<br />
<br />
PHẠM BÍCH SAN<br />
<br />
Mức sinh ở Việt Nam, cũng như trào lưu chung trên thế giới, đang từ từ đi xuống. Đối với nhiều người, nhất<br />
là những học giả nước ngoài, sự suy giảm đó là đáng khích lệ. Đối với các cơ quan nhà nước Việt Nam sự đi<br />
xuống đó hãy còn chậm và mang đầy sự nguy hiểm cho tương lai phát triển của đất nước. Đã có khá nhiều cuộc<br />
nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian một vài năm trở lại đây tập trung vào vấn đề này, nhưng các kết quả còn<br />
có phần chưa nhất quán. Bài này trình bày kết quả nghiên cứu về nhu cầu không được đáp ứng đối với kế hoạch<br />
hóa gia đình (KHHGĐ) được triển khai ở Việt Nam.<br />
<br />
I. Hiện trạng và vấn đề<br />
<br />
Một loạt các cuộc nghiên cứu thời gian qua đã cung cấp một khối lượng phong phú để phân tích về tình hình<br />
thực hiện KHHGĐ ở Việt Nam. Mặc dù chất lượng của số liệu là một vấn đề còn cần được đề cập tới, nhất là<br />
khi quá trình điều chỉnh số liệu được tiến hành không phải lúc nào cũng tuân theo được những quy tắc khoa học<br />
chặt chẽ, nhưng những số liệu này đã cho thấy nổi lên rõ rệt các đường nét của chương trình dân số và KHHGĐ<br />
đang được tiến hành tại nơi đây.<br />
<br />
Từ góc độ tỷ lệ sử dụng chung có thể thấy rằng có sự tăng gia nhất định trong tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh<br />
đẻ sử dụng các biện pháp KHHGĐ. Tuy nhiên, điểm nổi bật đầu tiên cần phải ghi nhận là tỷ lệ những người sử<br />
dụng các biện pháp truyền thống là cao. Hơn thế, không quan sát thấy xu hướng suy giảm trong tỷ lệ này mà,<br />
trái lại. lại có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ: chúng xấp xỉ 5% nếu so sánh các cấp nghiên cứu cùng loại với<br />
nhau, tức là DH/88 với ICDS/94 và PDFP/93 với PDFP/95. Điều này xảy ra trong khi hiệu quả của các biện<br />
pháp truyền thống là rất thấp và chương trình dân số và KHHGĐ Việt Nam đã cố gắng rất nhiều để đưa các biện<br />
pháp hiên đại vào.<br />
<br />
Điểm nổi bật thứ hai cần ghi nhận là có sự mất cân đối trầm trọng trong cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh<br />
thai. Chủ yếu ở Việt Nam chương trình dân số KHHGĐ sử dụng Vòng tránh thai là biện pháp chính. Các biện<br />
pháp hiện đại khác ít được sử dụng. Nỗ lực trong những năm vừa qua có cải thiện đôi chút cơ cấu trên nhưng sự<br />
biến chuyển chưa lớn. Ước tính hiện nay vẫn có trên 60% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiện đang sử dụng các<br />
biện pháp tránh thai sử dụng biện pháp vòng. Sự mất cân đối này được thể hiên rất mạnh ở miền Bắc Việt Nam,<br />
tới trên 80.4% vào năm 1988 và 78.1% vào năm 1993 trong khi các con số tương ứng ở miền Nam Việt Nam là<br />
36.9% và 42.6%. Và điều này cũng xảy ra bất chấp các nhận thức của các nhà quản lý cũng như phương hướng<br />
đã đề ra là đa dạng hóa các biện pháp tránh thai.<br />
<br />
Trong khi đó, việc phân tích các số liệu của cuộc nghiên cứu DHS/88 cho thấy năm<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
20 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
Bảng 1: Tỷ lệ thực hiện KHHGĐ của phụ nữ có chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở Việt Nam: tính chung các<br />
biện pháp và tỷ lệ phân bố của từng biện pháp<br />
<br />
<br />
Cuộc điều tra DSH/88 PDFP/93 ICDS/94 PDFP/95<br />
Tất cả các biện pháp 53.10 49.37 64.97 63.8<br />
Hiện đại 37.65 37.04 43.77 49.16<br />
Truyền thông 15.45 12.33 21.20 14.64<br />
Trong đó<br />
Vòng 62.32 62.45 51.22 57.9<br />
Thuốc uống 0.77 3.51 3.12 3.76<br />
Thuốc tiêm 0.4 0.29 0.42<br />
Máng/kem 0.04 0.12 0.08<br />
Bao cao su 2.18 2.68 6.2 7.04<br />
Đình sản nam 0.58 0.36 0.29 0.71<br />
Đình sản nữ 5.02 5.64 6.03 6.39<br />
Tính vòng kinh 15.72 15.83 15.07 21.47<br />
Xuất tinh ngoài 13.75 6.85 17.25 21.47<br />
Biện pháp khác 0.62 2.24 0.31 1.58<br />
Mức sinh<br />
CBR na 30.40 25.4 22.3<br />
TFR 4.0 3.73 3.1 na<br />
Nguồn DSH/88<br />
PDFP/93<br />
ICDS/94<br />
PDFP/95<br />
<br />
<br />
đó có 29% phụ nữ có chồng, có khả năng sinh để, không muốn có con nhưng không sử dụng các biện pháp<br />
tránh thai hiện đại. Kết quả Điều tra dân số giữa kỳ cho thấy có khoảng 31.7% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đê<br />
có nhu cầu về các biện pháp tránh thai có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là tại sao lại tồn tại nhu cầu không được đáp<br />
ứng đó ở phụ nữ Việt Nam?<br />
II. Phương pháp luận<br />
Cuộc nghiên cứu được tiến hành đồng thời tại hai khu vực Bắc và Nam Việt nam ở vùng phụ cận hai thành<br />
phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tại mỗi khu vực lựa chọn ba điểm: nông thôn xa, quãng chừng 25<br />
km, nông thôn gần, quãng chừng 20 tìm và một điểm đô thị của thành phố. Với tổng số tính 48 hộ gia đình chia<br />
cho mỗi một khu vực 24 hộ và tại mỗi điểm nghiên cứu 8 hộ, tổng cộng có 96 cá nhân, chồng và vợ, được<br />
phỏng vấn sâu. Những người được lựa chọn theo dự đỉnh ban đầu là có ba con không muốn có con nữa và hiện<br />
không sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Những do rất khó tuyển lựa những người có ba con trở lên,<br />
không sử đụng biện các pháp hiện đại, nhất là ở các khu vực đô thị, nên sau đó việc phỏng vấn có mở rộng ra tới<br />
cả một số đối tượng có hai con. Tại mỗi điểm nghiên cứu một cuộc phỏng vấn nhóm tập trung được triển khai<br />
nhằm tìm hiểu<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bịch San 21<br />
<br />
<br />
cặn kẽ hơn những gì có thể không thu được trong những cuộc phỏng vấn sâu. Việc phỏng vấn sâu cũng như<br />
phỏng vấn nhóm tập trung đề cập tới những gì họ biết về các biện pháp tránh thai, về chương trình dân số của<br />
nhà nước, về việc tại sao họ lại không sử dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả, về giá trị của con cái và nhu<br />
cầu có con, về sức ép của cộng đồng đối với việc có con cũng như việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ. Những<br />
yếu tố này được nhìn nhận trong tương quan với hàng loạt biến số độc lập khác như nơi ở (đô thị, nông thôn<br />
gần, nông thôn xa), giới tính, tình trạng kính tế gia đình, học vấn cùng nhiều yếu tố khác những khi có thể.<br />
<br />
III. Mong muốn có con<br />
<br />
Là một xã hội đang phát triển, các giá trị và chuẩn mực truyền thống chi phối mạnh mẽ việc có con. Quan<br />
niệm trời sinh voi, trời sinh cỏ, nhiều con hơn nhiều của vốn tồn tại từ lâu đời là điều gần như ai cũng biết. Cùng<br />
với sự biến đổi của xã hội Việt Nam trong khoảng hai mươi năm qua, những giá trị và chuẩn mực nay cũng<br />
đang dần dần thay đổi hướng về một tư duy hợp lý hơn đối với việc có con. Tuy nhiên, quá trình đó lâu dài và<br />
vẫn còn tồn tại một sự khác biệt khá lớn giữa những khu vực khác nhau của đất nước đối với nguyện vọng này.<br />
Tâm niệm đó được thể hiện hùng hồn như sau.<br />
<br />
"Có của mà không có con cũng vất đi" (người 01, nữ, Kim Sơn)<br />
<br />
Người Việt Nam nhìn nhận đứa con với nhiều giá trị khác nhau. Những giá trị đó bắt đầu là một niềm tin<br />
khó giải tích về sự cần thiết phải có người nối dõi tông đường. Thoạt nhìn bề ngoài, dường như đây không phải<br />
là điều quan trọng gì lắm. Trong phát biểu của đa số những người được hỏi có thể thấy rằng họ nắm được những<br />
đường nét của chính sách dân số nên ai cũng phát biểu hệt như chính sách chính thức của nhà nước, dù đó là nơi<br />
hẻo lánh hay chốn thị thành. Hai con, và có trai có gái. Và có lẽ cũng vì vậy mà những thước đo về thái độ của<br />
người dân luôn luôn có sự sai lạc so với thực tế.<br />
<br />
"Ý thích của chị là một trai và một gái là đẹp nhất" (Người 22, nữ, Sơn Tây)<br />
<br />
“Em thích có hai con, một trai một gái, con nào cũng thế” (Người 03, nữ, Dương Quang)<br />
<br />
“Theo sở thích của tôi muốn có hai cháu (một trai và một gái)" (Người 09, nam, Kim Sơn)<br />
<br />
Nhưng chỉ rất nhanh chóng sau đó những người được phỏng vấn cho thấy họ cũng nhất quán trong việc thấy<br />
cần thiết phải có người nối dõi tông đường, mặc dù sự cần thiết này phần nhiều được rào đón bằng việc "các cụ<br />
nhà em muốn thế”. Và các cụ này bao giờ cũng là các cụ bên chồng chứ rất ít khi, cả nam lẫn nữ, viện ra "các cụ<br />
bên vợ". Phụ nữ quán triệt rất rõ chức mạng và vai trò này của mình, là người cung cấp kẻ nối dõi cho gia đình<br />
nhà chồng, trong khi nam giới đôi khi có sự dễ dãi hơn, nhưng cũng dằn vặt không kém. Quan niệm này rất phổ<br />
quát trong toàn bộ những người được hỏi, dù ở bất cứ khu vực nào, nông thôn hẻo lánh hay đô thị đã bắt đầu<br />
tràn ngập những giá trị mới.<br />
<br />
Sức mạnh của mong muốn này rất lớn, thậm chí nó được biểu đạt ra trong tư thế rất đối lập với các định chế<br />
do các cấp chính quyền địa phương đặt ra để trừng phạt việc có qua hai con so với mục tiêu đề ra của nhà nước.<br />
Ở đô thi, với trình độ phát triển cao hơn người ta chấp nhận điều này cũng như ở nông thôn, nơi có sự quản lý<br />
chặt chẽ của chính quyền cũng như người dân có thói quen tuân thủ hơn người ta vấn đề khi chưa có con trai.<br />
Nếu đặt việc này trong tỉnh huống khi nông dân, thu nhập của người lao động có thể chỉ là 2000 đ/ngày thì mới<br />
thấy hết sự to lớn của khoản tiền phạt 200.000 đến 300.000 đồng cho một lần đẻ con ngoài kế hoạch cùng với<br />
những khó khăn khi nhận phần đất chia sau này.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
22 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
"Người khác thì tôi không biết nhưng tôi thì nhất khoát là phải có một con trai, nếu chưa có thì dù phải phạt<br />
tôi cũng đẻ. Nhiều khi nghĩ có con trai phải lo liệu dạy dỗ mệt hơn con gái nhưng việc phải có nên vẫn muốn có<br />
con trai thì hơn" (Người 17, nam, Sơn Tây)<br />
"Có một số gia đình vẫn đẻ thêm mặc dù bị phạt vì họ cần con trai hoặc có con trai rồi nhưng lại muốn con<br />
gái" (Người 06, nam, Kim Sơn)<br />
"Người ta có thì mình cũng có biết đâu lại có con trai. Hàng xóm láng giềng đều có cả mà mình không có thì<br />
cũng phải có thôi" (Người 07, nữ, Dương Quang)<br />
Do định hướng về nối dõi tông đường mạnh như vậy, mà sự nối dõi này phải là con trai, nên giá trị của con<br />
trai được nhìn nhận cao hơn hẳn các giá trị của con gái. Đặc biệt ở đây là yếu tố về sức mạnh vì trong một xã<br />
hội nhiều màu sắc truyền thống như Việt Nam, kỹ thuật không phát triển, tình trạng pháp luật nhiều khi không<br />
rõ ràng thì việc có sức khỏe là thiết yếu, nhất là khi phải giải quyết các công việc nặng hoặc có những tranh<br />
chấp. "Con trai quan trọng nhiều hơn con gái vì cả nhà chồng chỉ có một mình nhà em, phải theo các cụ có con<br />
trai để nối dõi tông đường cho bố mẹ chồng vui" (Người 01, nữ, Kim Sơn)<br />
"Một gia đình chỉ toàn là con gái thì thường lép vế so với những gia đình khác" (Người 12, nam, Kim Sơn)<br />
Thậm chí, đối với nhiều người không đơn thuần là đẻ con trai, mà vẫn cần phải có một lượng con trai nhất<br />
định vì một con trai theo quan niệm cổ truyền vẫn là hiếm. Trong thâm tâm, người tả vẫn cho rằng cần phải có<br />
hai trai một gái mới là mô hình đẹp. Cũng do phải đề phòng với rủi ro cho nên người dân rất dè dặt khi sử dụng<br />
các biện pháp vĩnh viễn như triệt sản.<br />
"Chính sách này có ảnh hưởng tới số con sinh ra trong gia đình nhưng hiếm con trai thì người ta vẫn cứ đẻ<br />
chứ" (Người 10, nữ, Dương Quang)<br />
"Em thích có nếp có tẻ, tốt nhất là hai trai một gái là đủ" (Người 5, nữ, Kim Sơn)<br />
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng không đơn thuần chỉ có nhu cầu về con trai, họ cũng có một nhu cầu khá<br />
mạnh về con gái. Mặc dù nhất thiết phải có con gái không mạnh như con trai nhưng đó vẫn là một ước nguyện.<br />
Và ở đây thấy nổi lên giá trị tình cảm của con cái: con cái là niềm vui lúc hiện nay và có dâu, có rể là niềm vui<br />
lúc tuổi già. Mặc dù những người được phỏng vấn mới chỉ ở đội tuổi 30, nhưng họ đã nghĩ về tương lai như thế:<br />
cá nhân và sự thăng tiến cá nhân là một cái gì không được biết tới mà chủ yếu là sống như vòng đời vẫn thế.<br />
"Dù sao có nếp có tẻ vẫn hơn" (Người 11, nữ, Kim Sơn)<br />
"Con gái tình cảm hơn con trai nên cũng phải có con gái, tâm lý chung ai cũng vậy" (Người 21, nữ, Sơn<br />
Tây)<br />
Đối với người dân, giá trị bảo hiểm lúc tuổi già của con cái là vô cùng lớn. Nhất là trong lúc chuyển đổi như<br />
hiện nay. Trước kia, đã có một thời việc hưu trí đã được phổ biến rộng rãi, kể cả nông thôn nơi hợp tác xã nông<br />
nghiệp đảm nhận trách nhiệm này. Nhưng giá trị của đồng tiền thấp nên số tiền nhà nước trả cho những người<br />
hưu trí, bảo đảm sức khoẻ rất nhỏ bé không đủ trang trải cho đời sống và các phí tổn khác. Ở nông thôn HTX<br />
không đảm nhận chức năng đó nữa. Do vậy, người ta thấy cần nhiều cái ở con cái. Ngoài tiền nong ra thì còn cả<br />
vấn đề chăm sóc nữa, điều này đặc biệt quan trọng ở đô thị vì ở nông thôn còn có thể dựa vào cộng đồng trong<br />
khi ở đô thị khả năng đó là thấp hơn.<br />
"Về già thì nó làm ăn nuôi mình chứ, khi bố mẹ cần tiền thì con cái phải cho" (Người 10, nữ, Dương Quang)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích gan 23<br />
<br />
<br />
"Giúp đỡ của con ở nhà hoặc con xây nhà, cho bố mẹ tiền không có gì quan trọng cả chỉ quan trọng nhất<br />
chăm sóc bố mẹ lúc già" (Người 21, nam, Sơn Tây)<br />
Khi xem xét tới việc có con, người ta đã cảm nhận thấy sự tốn kém của việc có con.<br />
Và người ta thấy rằng việc nuôi dưỡng cho con ngày hôm nay tốn kém hơn trước kia rất nhiều. Ở đây thấy<br />
đặt biệt nổi rõ lên sự cần thiết phải chi phí cho sức khỏe của trẻ con lúc bé và sự học hành của con cái khi lớn.<br />
Ngoài ra, theo truyền thống Việt Nam, bố mẹ phải lo nhà cửa cho con trai khi chúng trưởng thành xây dựng gia<br />
đình riêng, vì vậy, đây cũng là một khoản chi phí buộc các bậc cha mẹ phải suy nghĩ.<br />
"Hiện nay nuôi con tốn kém hơn trước vì bây giờ đòi hỏi nhiều, mức sống cao hơn và chi phí cho con nhiều<br />
hơn" (Người 10, nữ, Dương Quang)<br />
"Tuy nhiên, việc cho các cháu học hành là tốn kém nhất" (Người 17, nam, Sơn Tây)<br />
"Sau này khi con cái lớn là phải lo xây dựng nhà cửa cũng rất tốn kém vì mỗi con trai phải ra ở riêng"<br />
(Người 04, nam, Dương Quang)<br />
Nhưng nếu từ những sự tốn kém đó mà nghĩ rằng sẽ có một sự suy giảm trong việc có con của người dân<br />
Việt Nam thì đó là kết luận hơi sớm. Họ cảm nhận thấy gánh nặng đó gia tăng, đặc biệt là sau khi nhà nước xóa<br />
bỏ bao cấp trong một loạt các lĩnh vực xã hội, nhưng họ chưa biết được gánh nặng đó là sẽ đến đâu. Hơn thế,<br />
những chi phí đặc biệt tốn kém là dành cho việc đào tạo chuyên môn sâu, mà điều này là chưa xuất hiện cụ thể<br />
trong tầm nhìn của họ. Ở đây, mối quan hệ ngược giữa gia tăng kinh tế và sinh đẻ là có nhưng không phải là<br />
mạnh và thậm chí người ta, trong chừng mực nào đó, còn nuôi hy vọng đẻ thêm con cùng với sự tăng tiến của<br />
kinh tế. Và nó tồn tại ngay cả ở khu vực đô thị. "Bây giờ thì không muốn đẻ nữa nhưng nếu thời gian tới kinh tế<br />
khá lên thì có thể sẽ đẻ thêm" (Người 13, nữ, Kim Sơn)<br />
"Hiện tại thì tôi cũng chưa có ý định sinh con nhưng cũng chưa biết thế nào, nếu sau này kinh tế khá lên thì<br />
cũng có thể đẻ thêm được" (Người 17, nam, Sơn Tây)<br />
Cuối cùng, cũng cần phải đề cập đến hai loại sức ép đặc biệt đến việc có con ở nông thôn: sức ép của chính<br />
sách ruộng đất và sức ép của cộng đồng. Một mặt, do ruộng đất vẫn là của công nên chính sách ruộng đất có tác<br />
dụng làm người dân suy nghĩ rất nhiều vì việc đẻ con vượt quá mức có thể là cho họ khó khăn trong việc nhận<br />
được khẩu phần đất của đưa con sinh thêm đó. Nhưng mặt khác, người ta chấp nhận nộp phạt vì sau đó đứa con<br />
có quyền nhận một phần đất kể cả trong phần đất của những đứa trẻ ngoài kế hoạch này thì người bố phải bớt đi<br />
một phần đất của mình (ví dụ một nửa) cho đứa con. Khi đó lượng đất nhận được vẫn có hơn.<br />
Sức ép cộng đồng cũng rất ghê gớm. Trong khi sức ép giảm dân số là chính thống thì tác động có chừng<br />
mực thì sức ép cộng đồng lên những người chưa có con trai, hoặc đôi khi là chưa có con gái rất lớn. Cảm nhận<br />
điều này lớn nhất có lẽ là các bậc nam giới. trỏ địa phương chúng tôi nhiều người chỉ có con gái không thôi thì<br />
cũng thấy lép vế, hay bị trêu chọc nên có tác động nhiều đến họ làm cho họ cứ phải cố đẻ có con trai dẫn tới<br />
nhiều gia đình tiềm lực kinh tế không có gì. Bố mẹ cũng khổ mà con cái cũng khổ" (Người 14, nam, Kim Sơn)<br />
Nhìn chung, xã hội Việt Nam có chuyển đổi và giá trị con cái cũng có chuyển đổi nhưng những giá trị<br />
truyền thống vẫn còn chi phối mạnh mẽ. Và việc không sử dụng các biện pháp tránh thai ở đây khi đã có hai con<br />
hay ba con chủ yếu liên quan đến việc người dân chưa được thỏa mãn về giới tính của những đứa con do mình<br />
sinh ra:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
24 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
IV. Nhu cầu không được đáp ứng<br />
<br />
IV.1 Về vòng<br />
<br />
Vòng là biện pháp phổ biến nhất trong cư dân Việt Nam, đặc biệt là nông thôn. Một thời gian dài vòng theo<br />
hệ thống nhà nước từ trên xuống dưới được bao cấp cho người dân và có tính chất khá bắt buộc, ở nơi đâu có<br />
thể, cả ở nông thôn qua hệ thống chính quyền xã và ở đô thị qua các cơ sở của nhà nước và tập thể. Cho tới cuối<br />
những năm 1980 người ta sử dụng chủ yếu là vòng Dana của Tiệp và các loại vòng do Việt Nam sản xuất (vòng<br />
hạnh phúc). Về sau này có thêm vòng TCu và một số loại khác. Qua các cuộc phỏng vấn sâu lẫn phỏng vấn<br />
nhóm tập trung cho thấy tất cả mọi người đều đều cập tới biện pháp này với một sự tin tưởng đương nhiên là họ<br />
biết về nó. Hơn thế, trong số những người được phỏng vấn đa số người đã sử dụng vòng và chỉ sau đó vì một lý<br />
do gì đó họ mới không sử dụng nó nữa. Dường như có một quan niệm đã ăn sâu vào đầu người dân là ở nông<br />
thôn thì chỉ có vòng:<br />
<br />
"Theo tập quán ở làng, nhà quê chỉ đặt vòng hoặc triệt sản thôi còn không ai sử dụng cái gì khác, ở đây cũng<br />
không ai bán bất cứ cái gì tránh thai cả" (Người 07, nữ, Dương Quang).<br />
<br />
Có nhiều lý do để người dân ưa thích vòng, mà trước hết và nó tiện lợi theo cách nghĩ của họ cho vào là<br />
xong việc không phải lo nghĩ gì. Tiện lợi cũng là vì hệ thống dân số bảo với họ là tiện lợi. trong khi đi phổ biến<br />
sử dụng tránh thai người ta nhấn mạnh đến việc vòng tránh được thai mà lại không phiền phức gì. Các thông tin<br />
khác về cái vòng rất ít khi được hệ thống chính thức phổ biến rõ rệt, đặc biệt là các tác động phụ. Cũng chẳng có<br />
sự đa dạng nào về các kiều loại vòng để cho người ta lựa chọn. Mỗi đợt có cuộc đặt vòng thì cũng chỉ có một<br />
kiểu và đa phần là cùng một loại kích thước. Hơn thế, có rất nhiều trường hợp mà bản thân người có mang vòng<br />
tránh thai cũng không hề biết được là mình được đặt khi nào (chủ yếu là sau khi đẻ ở bệnh viện). Do nói nhiều<br />
đến vòng chủ yếu chỉ đến vòng, kỹ thuật tuyên truyền này tạo ra kết quả là khi người nghĩ tới cần tránh thai là<br />
lại phải vòng chứ không phải biện pháp khác.<br />
<br />
"Vòng thì đơn giản, 5 năm thay một lần đỡ vướng víu và không phải bận tâm" (Người 04, nữ, Dương<br />
Quang)<br />
<br />
"Nếu người ta mà vào vận động nhiều quá thì có thể sẽ đi đặt vòng còn các biện pháp tránh thai khác thì có<br />
phần sợ... Em chưa biết hình dáng của vòng thế nào và tác dụng của nó trừ tác dụng tránh thai nhưng mọi người<br />
nói nhiều thì có thể thử được..." (Người 05, Kim Sơn)<br />
<br />
Tiếp đó, nó là biện pháp được thông dụng và ưa thích bởi cấp cơ sở có trách nhiệm đối với chương trình là<br />
dân số KHHGĐ. Đặt mình vào khung cảnh của những đội KHHGĐ lưu động những năm từ thập kỷ 9Q trở về<br />
trước khi các xã không có khả năng làm thao tác đặt vòng, và bây giờ cung vẫn nhiều xã không làm được thao<br />
tác này, có thể thấy rằng họ phải đương đầu với một nhiệm vụ quá sức như thế nào. Một mặt, chỉ tiêu từ trên<br />
giao xuống về số lượng người phải sử dụng vòng là cụ thể. Tiêu chuẩn chính thức của cả một thời kỳ dài là 5%<br />
dân số mang vòng. Mặt khác, cho tới thời gian gần đây chủ yếu họ chỉ sử dụng xe đạp triển khai trên địa bàn<br />
toàn huyện, các phương tiện thông tin tuyên truyền hạn hẹp. Với hệ thống y tế tư không tồn tại vòng một khi đặt<br />
vào là không thể tháo ra được nên rất dễ đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Và quán tính đó tồn tại đến tận ngày<br />
hôm nay khi Việt Nam có khả năng cung cấp một sự đa dạng hơn các phương tiện tránh thai cũng như có điều<br />
kiện hơn để tuyên truyền kỹ lưỡng về tránh thai.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích San 25<br />
<br />
<br />
"Trạm xá và những người chuyên trách ở thôn vận động chị em đặt vòng tránh thai và đình sản theo lịch<br />
hàng tháng có người ở huyện về. Không bao giờ thấy họ tuyên truyền và hướng dẫn cách sử dụng biện pháp nào<br />
khác" (Người 13, nữ, Kim Sơn)<br />
<br />
“Trước khi chị đi làm ở cơ quan thì họ phổ biến, bắt phải đi đặt vòng tất, không đi thì cuối năm sẽ bị phạt<br />
vào tiền thưởng hoặc quá lắm thì bị cắt lương, không được bình bầu tiên tiến (Người 21, nữ, Sơn Tây)<br />
<br />
Tuy nhiên, cũng không thể nói là người ta đã biết cặn kẽ về vòng. Một thí dụ đơn giản là loại vòng mới,<br />
vòng TCu có dây mới được đưa vào đã không được dễ dàng chấp nhận. Đồng thời, cũng không sẵn có vòng<br />
TCu cho người dùng như qua tìm hiểu ở các cán bộ y tế, dân số địa phương.<br />
<br />
"Tại vì nó có cái dây là ông ấy sợ, vướng..." (Người số 7, Sơn Tây)<br />
<br />
Dù rằng không được đề cập tới nhiều, nhưng với sự sử dụng đại trà như thế các tác động phụ của vòng đã<br />
bộc lộ. Và cũng do không được đề cập tới một cách chính thức để người dân có thể có những hiểu biết và dự<br />
báo được những gì sẽ xảy ra, tin đồn có mảnh đất tốt để tồn tại. Trước hết, trong dân cư thấy lan truyền những<br />
thông tin về tác động xấu của vòng nhưng lại không có thông tin đi kèm là trong những trường hợp nào và khi<br />
nào có thể có những tác dụng xấu đó. Thậm chí, dù là biện pháp của phụ nữ và theo thói quen nam giới không<br />
đề cập đến những chuyện ấy của đàn bà, đàn ông cũng được nghe như vậy. "Đặt vòng sinh nhiều bệnh tật, sức<br />
khỏe kém đi hơn là không đặt vòng, ban đầu đau bụng" (Người 08, nữ, Dương Quang)<br />
<br />
“Tôi nghe nói ảnh hưởng của tác động phụ chủ yếu là (về) vòng, ai đặt vòng không hợp thì gây hại cho sức<br />
khỏe như rong kinh hay kém ăn, gầy, sút cân (Người 23, nam, Sơn Tây)<br />
<br />
Hơn cả những lời đồn đại là lời kể của những người đã sử dụng vòng trong cuộc phỏng vấn nhóm tập trung.<br />
Những người phụ nữ đã sôi nổi kể lể về những nỗi bất hạnh mà vòng đã đem đến mà bọ đã chứng kiến hay bản<br />
thân đã từng trải qua. Nhiều khi người ta vẫn thường cho rằng những ảnh hưởng phụ thường xảy ra ở phụ nữ<br />
nông thôn do vệ sinh đường sinh dục kém hoặc phải lao động quá nặng. Nhưng ở đô thị cũng vẫn thấy chuyện<br />
đó xảy rá ở nhiều nơi. Có thể thấy rõ ràng đối với nhiều người vòng không phải là biện pháp thích hợp, và do<br />
chi có nó là biện pháp tránh thai duy nhất nên việc không sử dụng biện pháp trách thai là việc chẳng dừng được.<br />
<br />
“Trường hợp có thai ngoài vòng cũng có những cái trường hợp bị rong huyết là đa số chị ạ, phần lớn là rong<br />
huyết" (người số 5, Dương Quang)<br />
<br />
"Riêng em thì lại không bao giờ viêm nhiễm mà em cứ đặt vòng thì người nó cứ gầy rộc đi... mà cứ tháo<br />
vòng ra cảm thấy nó khỏe ra, mà còn beo béo ra một tý..." (Người số 1, Sơn Tây)<br />
<br />
Ngoại trừ một số đơn vị cấp xã có thể tự tiến hành được việc đặt vòng, thông thường công tác này được tiến<br />
hành bởi đội kế hoạch hóa gia đình lưu động. Việc đặt vòng thường có thể là một tháng, hay hơn, mới tiến hành<br />
một lần. Điều này cũng là một yếu tố làm cho có nhiều người phụ nữ không chủ động được việc đặt vòng của<br />
mình vì đơn giản phụ nữ nông thôn quá bận rộn, công việc nặng nhọc và việc thông tin chỉ mới gần đây mới tốt<br />
hơn. Cũng chính vì sự chưa tiện lợi đó mà việc sử dụng quá giới hạn của vòng là hiện tượng thường thấy ở phụ<br />
nữ Việt Nam. Có thể là vì khi họ đặt vòng không ai nói cho họ biết về điều đó, có thể họ quen, và cũng có thể<br />
họ cố để. Kết quả là dễ hiểu: có thai ngoài ý muốn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
26 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
"Có hai lần vừa rồi trạm xá có đặt vòng định đi nhưng còn phải đi chợ kiếm tiền không đi được" (người 07,<br />
nữ, Dương Quang)<br />
"Như em này này, đặt vòng nhé, sinh cái cháu thứ hai được chín tuổi rồi, xong bảo thôi không đẻ nữa,<br />
nhưng mà bảo thôi đấy đến mười năm thì lại ra theo vòng, nhưng mà đến năm thứ chín thì là chửa" (người số 7,<br />
Kim Sơn)<br />
Chất lượng của vòng và kỹ thuật đặt vòng là yếu tố quyết định của việc người ta không sử đụng nó nữa.<br />
Tình trạng vòng không bảo đảm và vòng bị rơi cũng xảy ra nhiều. Thậm chí trong một số cuộc nghiên cứu về<br />
vòng đã tìm thấy những tỷ lệ quá cao về rơi vòng không thể chập nhận được. Người ta giả định rằng tay nghề<br />
của các cán bộ y tế chưa cao dẫn đến tình trạng đặt vòng không đúng quy cách, sự lao động nặng của phụ nữ<br />
ngay sau khi đặt vòng dẫn đến vòng rơi. Bất kỳ thế nào thì việc này cũng làm cho người ta không tin tưởng vào<br />
biện pháp này nữa và ngừng sử dụng. Và cũng không áp dụng biện pháp ngoài biện pháp tự nhiên.<br />
"Còn như em này, hai lần tuột vòng (cười)" (người số 4, Sơn Tây)<br />
“Em đã đặt vòng vì rất tin tưởng ở vòng vì nghĩ sẽ không có thai nhưng bây giờ bị vỡ kế hoạch thì không thể<br />
tin tường được nhất (Người 16, Sơn Tây)<br />
"Chính em bị chửa ngoài vòng cháu thứ ba, vòng rơi ra ngoài cũng không biết" (người 06, nữ, Kim Sơn)<br />
Sự phiền toái đối với biện pháp tránh thai phổ biến này còn là ở chỗ làm thế nào tháo nó ra khi không muốn<br />
sử dụng nữa. Thứ nhất, việc tháo ra không phải được các cán bộ y tế dân số hào hứng làm vì họ thường cho rằng<br />
đó chỉ là vì người phụ nữ không thích trách thai và, hơn thế, điều này ảnh hưởng đến thành tích công tác của họ.<br />
Bên cạnh đó, kỹ thuật tháo vòng ra không dễ và thường phải bệnh viện mới làm được, điều này gây tốn kém cả<br />
về thời gian và tiền của để làm cho cả phụ nữ và người chồng của họ.<br />
"Còn đặt vòng thì ngại, hợp thì đã đành nếu không hợp thì lại phải tháo mà ở trạm xá thì không thể tháo<br />
được, muốn tháo vòng thì lại phải đi tận bệnh viện huyện cách đây hơn chục cây số mất cả buổi" (người 05,<br />
nam, Kim Sơn)<br />
Cuối cùng, cũng phải tính đến những thái độ không thuận lợi đối đặt vòng từ phía những người xung quanh.<br />
Mặc dầu đây là biện pháp thông dụng, đã được tuyên truyền trong nhiều năm, nhưng nó không phải được chấp<br />
thuận bởi tất cả mọi người. Nhất là khi các cặp vợ chồng sống với những bậc phụ huynh. Điều này không chỉ<br />
gây cản trở cho những cặp vợ chồng nào muốn đặt vòng nhưng không được sự chấp thuận của bố mẹ mà còn<br />
ảnh hưởng đến sức khỏe người phụ nữ vì họ không được tĩnh dưỡng dù một thời gian cần thiết sau đặt vòng.<br />
"Khi vợ tôi đi đặt vòng chúng tôi không nói gì với bố mẹ biết vì sợ ông bà phản đối" (ngời 03, nam, Dương<br />
Quang)<br />
Tuy nhiên, do quá lâu ngày nên giờ đây nó vẫn là biện pháp được ưa thích nhất và chỉ sau đó mới đến các<br />
biện pháp khác. Điều này là phổ quát ở tất cả mọi địa điểm nghiên cứu. Xin được lưu ý rằng tất cả những điểm<br />
nghiên cứu này nằm hoàn toàn không xa Hà Nội và có thể nói rằng vô cùng thuận lợi cho việc triển khai chương<br />
trình dân số - KHHGĐ. Ngay cả ở đô thị nơi việc kiếm các biện pháp khác là tương đối dễ dàng hơn nhiều so<br />
với các khu vực nông thôn.<br />
"... còn đa số nguyện vọng là nếu đặt được vòng là tốt nhất, trừ đi khám là viêm nhiễm hoặc là do cổ tử cung<br />
bị hẹp như thế nào mà không đặt được vòng thì chị em mới dùng biện pháp khác" (Người số 5, Sơn Tây)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích San 27<br />
<br />
<br />
IV.2 Về túi cao su<br />
Có lẽ, sau vòng thì túi cao su có lịch sử sử dụng lâu phổ biến nhất ở Việt Nam. Ngày xa xưa, nó bắt nguồn<br />
từ văn hóa Pháp, “Franch letter”, nhưng chỉ phổ biến rất hiếm ở nơi đô thị. Quan niệm truyền thống là túi cao su<br />
chỉ dành cho gái điếm. Khi chương trình dân số KHHGD mới được bắt đầu triển khai, đây là biện pháp được đề<br />
cập tới luôn luôn nhưng... để không sử dụng nó mà chỉ minh họa rằng có những biện pháp tránh thai khác nữa.<br />
Do vậy, nó ít được phổ biến cho tới mãi gần đây.<br />
Điều đầu tiên có thể nhận xét qua biện pháp này là có sự khác biệt nào đấy rất khó xác định giữa nam và nữ.<br />
Nam giới biết về biện pháp này theo nghe nói và biết rằng có thể mua được và mua ở đâu đó, ví dụ ở huyện<br />
chẳng hạn. Nhiều người bàn về vấn đề này rất tự tin nhưng đơn giản là chưa thấy ai thông báo là vợ chồng họ đã<br />
từng thường xuyên sử dụng. Còn nữ giới, do thông thường họ là đối tượng của chương trình dân số/KHHGĐ<br />
nên họ không biết kiếm nó ở đâu nếu chương trình không cung cấp. Do vậy, là biện pháp có lịch sử lâu đời ở<br />
Việt Nam thứ hai sau vòng, sự khó khăn của việc phổ biến phương pháp này cho mỗi người trước hết là sự<br />
không sẵn có.<br />
“Khoảng vài tháng gần đây mới có thêm hai phương pháp khác là thuốc và bao cao su" (người 01, nữ, Kim<br />
Sơn)<br />
“Mới phát động thì mới có chứ trước kia lấy đâu ra... (người số 3)... Theo từ trước đến giờ dụng cụ đặt vòng<br />
vẫn hơn bao cao su " (người số 6, Dương Quang)<br />
Sự không sẵn có này có hai nguyên nhân. Trước hết, cho đến giữa thập kỷ 80 chương trình dân số KHHGD<br />
Việt Nam không có khả năng cung cấp cho người dân sử dụng rộng rãi biện pháp này. Thứ hai, khi đã có sẵn<br />
hơn về sau này, hệ thống dân số KHHGĐ không có khả năng làm thế nào triển khai phân phát nó cho người dân<br />
sử dụng, nhất là ở khu vực nông thôn. Cán bộ của hệ thống quen với việc tuyên truyền vòng cũng như phần lớn<br />
họ là phụ nữ nên ngại nói chuyện này với nam giới, những người phải sử dụng nó. Hơn thế nữa, làm thế nào để<br />
quản lý chúng bây giờ, nhất là để đánh giá nó được dùng có hiệu quả hay không. Còn phải nói việc thường<br />
xuyên phải cung cấp nó cho người sử dụng làm họ tốn thì giờ trong khi đồng lương ít ỏi.<br />
“Các cán bộ KHHGĐ ở xã có vào tận nhà vận động chúng tôi đi đặt vòng còn dùng bao cao su thì chưa thấy<br />
vận động” (Người 06, nam, Kim Sơn)<br />
Đối với người sử dụng, sự tiện lợi của biện pháp này là cả một vấn đề lớn. Người ta băn khoăn về làm thế<br />
nào sử dụng thường xuyên được nó, mà sự lo láng này chủ yếu từ phía phụ nữ.<br />
“Bao cao su có khi là chồng có khi quên” (Người số 4, Dương Quang)<br />
Rào chắn tâm lý có lẽ là lý do quan trọng trong việc không sử dụng. Cũng không thấy nam giới thông báo gì<br />
về việc này mà chủ yếu chỉ có nữ giới là đề cập tới. Nhiều người phụ nữ đã thử dùng và không thích. Họ có lẽ<br />
cũng do thành kiến sao đó nên không tiếp tục sử dụng nữa để tạo thành sự thoải mái với phương pháp đó.<br />
Những người khác lại cho biết sự không hài lòng là từ phía chồng nên để chiều theo họ cũng bỏ luôn.<br />
“Chị đã thử dùng nhưng chưa dùng quen thấy vướng víu, khó chịu nên thôi không dùng nữa" (người 20, nữ,<br />
Sơn Tây)<br />
"...nhưng em ba lần đặt vòng rồi nhưng không ưa, mấy lại dùng bao cao su thì nói chung chồng em không<br />
muốn" (người số 4, Sơn Tây)<br />
Phí tổn và việc phải tự mình đi kiếm bao cao su cũng là một nguyên nhân không nhỏ.<br />
Người nông dân thu nhập rất thấp và, hơn thế, người nông dân truyền thống họ không có thói quen sử dụng<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
28 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
đồng tiền nói chung và nhất là khi chi phí vào một việc không thuận với họ như tránh thai. Đi mua cũng là một<br />
vấn đề vì phải phô bày khía cạnh sinh hoạt thầm kín của mình cho người khác, nhất là ở nông thôn khi tất cả<br />
mọi người đều quen biết nhau và tin tức nhanh chóng truyền miệng từ người này sang người khác.<br />
"...nếu dùng bao cao su thì vừa không tiện lại nhiều khi phải đi mua, vừa mất tiền vừa ngượng" (Người 01,<br />
nam, Kim Sơn)<br />
"tôi muốn dùng nó nhưng không thích mua vì không biết mua ở đâu và tốn tiền" (Người 08, nam, Dương<br />
Quang<br />
Nhìn chung, nét đặc sắc nhất của việc sử dụng bao cao su có lẽ nó là một biểu tượng của nền kinh tế thị<br />
trường cũng như vòng tránh thai là biểu tượng của nền kinh tế có kế hoạch. Tất cả các lý do đã nêu trên của<br />
những người được phỏng vấn đều do họ chưa hiểu tường tận biện pháp này, chưa được thử và chưa thành thói<br />
quen sử dụng. Nhưng có điều quan trọng hơn là hệ thống cung cấp dịch vụ tránh thai chưa tìm ra cách hợp lý để<br />
phân phối tới tay người tiêu dùng bao cao su. Hay nói đúng hơn là họ không quen chuyển sang phân phát bao<br />
cao su trên căn bản thị trường. Trong khi đó việc bán bao cao su theo chương trình marketing xã hội của tổ chức<br />
TDK đã thu được kết quả chưa từng thấy. Doanh số bán hàng của tổ chức này đã gia tăng nhanh chóng. Tất cả<br />
là tùy thuộc vào hệ thống phân phối trong thời gian sắp tới vì khá nhiều nam giới nay đã biết mua ở đâu và giá<br />
bao nhiêu, tuy chưa phải là tất cả.<br />
“Ở địa phương chúng tôi có bốn hiệu thuốc bán bao cao su và thuốc tránh thai” (Người 11, nam, Dương<br />
Quang)<br />
"Giá bao cao su Trust là 300đ/chiếc, bán ngay gần chỗ vợ tôi bán hàng” (Người 22, nam, Sơn Tây)<br />
IV.3 Về thuốc<br />
Sự hiểu biết về thuốc của người Việt Nam là nghèo nàn, nhất là nam giới trong các cuộc phỏng vấn ít khi đề<br />
cập đến từ thuốc tránh thai. Còn nói chung mỗi phụ nữ có nghe nói tới thuốc tránh thai, nhưng cơ chế cụ thể của<br />
nó ra sao thì ít ai am hiểu tường tận. Các cuộc phỏng vấn khi đề cập đến thuốc luôn luôn được nghe những câu<br />
hỏi về thuốc là như thế nào. Hơn thế, mọi người đều đã có thái độ rất không thiện cảm đối với thuốc tránh thai.<br />
“Dùng thuốc cũng sợ vì nó là thuốc độc mới không có thai chứ, vào người có hại và sợ quen” (người 02, nữ,<br />
Kim sơn)<br />
"Thuốc thì em không thấy ai dùng, chắc là không tốt và không tránh thai được" (Người 10, trừ, Dương<br />
Quang)<br />
Sự lo ngại nay lan truyền đến cả nam giới.<br />
"Thuốc có suy nghĩ định dùng nhưng chồng khuyên không vì sợ hại người" (Người 12, nam, Kim Sơn)<br />
Và thái độ này được hình thành nên không phải là từ các tin đồn không có căn cứ mà từ một sự phổ biến có<br />
tính chất rất chính thức trong nhiều năm đến nỗi ngày hôm nay, khỉ nhận thức của chương trình KHHGĐ đối<br />
với thuốc đã thay đổi, thì kiến thức của những người làm công tác đó vẫn không thay đổi. Kể cả đó là cán dân số<br />
ở một bệnh viện và thuộc khu vực đô thị không xa Hà Nội.<br />
"Chị nghe người ta nói thuốc bị biến chứng sau này gây ung thư như chính chị phụ trách công tác dân số và<br />
KHHGD ở trong bệnh viện thì thực tế chưa thấy ai sao cả" (Người 19, nữ, Sơn Tây)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích San 29<br />
<br />
<br />
Việc tuyên truyền dùng thuốc không chỉ ít, nhiều khi không dùng mà còn có thể tạo ra cho người phụ nữ<br />
nông dân một cảm giác phức tạp khi sử dụng. Do vậy, phần nhiêu phụ nữ không có kiến thức đủ để dùng thuốc<br />
như thấy quá phiền phức cho công việc đã vốn rất bận của họ.<br />
<br />
"Lắm lúc tôi lấy thuốc về cứ bảo vợ chồng đi lại thì mới uống, hay là thôi cứ để đấy" (Người số 7, Sơn Tây)<br />
<br />
"Thấy họ bảo nếu mà uống thuốc nhẹ thì tối hôm nay uống mấy giờ thì đến tối mai lại uống mấy giờ, nó<br />
phải đúng giờ, sợ tôi còn quen thế nọ thế kia (cười)" (Người số 3, nữ, Dương Quang)<br />
<br />
Khác với bao cao su người ta còn có thể đề cập đến việc đi mua chứ đối với thuốc thì không ai bàn đến việc<br />
đi mua cả, kể cả khu vực đô thị là nơi có thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn. Toàn bộ các cuộc<br />
thảo luận nhóm tập trung chỉ thấy bàn về việc có thể xin được phát thuốc ở đâu và liệu hệ thống y tế xã, phường<br />
có cấp phát không. Nếu việc cung cập thuốc đã là vấn đề thì việc bán thuốc sẽ lại càng là vấn đề đối với tất cả<br />
mọi người.<br />
<br />
Do vậy, khi cần tránh thai, người ta lại quay về với cái quen thuộc hoặc cái tự nhiên. Dường như người Việt<br />
Nam ít có tính mạo hiểm nên gặp trở ngại ngay lập tức họ nhớ đến cái đã được nói đến nhiều nhất và chấp nhận<br />
nó hơn chấp nhận cái mà họ chưa biết. Với ca mạo hiểm là phương pháp đó không hợp cho họ.<br />
<br />
“...một là vợ chồng tránh thai cho nhau không thì lại đặt vòng chứ còn uống thuốc thì em không uống thuốc,<br />
thực sự là như thế” (Người số 2, Dương Quang)<br />
<br />
IV.4 Về triệt sản<br />
<br />
Sau biện pháp vòng, biện pháp đình sản là một biện pháp trong những biện pháp được hệ thống dân số Việt<br />
Nam hết sức khuyến khích, mặc dù sự khuyến khích này cũng chỉ mới xuất hiện về sau này. Lý do của sự ưa<br />
thích đó của họ cũng rất đơn giản: tiện lợi cho công tác của họ và cũng có do tin cậy tuyệt đối. Nhưng đồng thời<br />
trợ lực của dân cư đối với biện pháp này có lẽ là lớn nhất. Suy nghĩ về triệt sản nam một cách ngắn gọn được<br />
biểu đạt một cách hùng hồn như sau:<br />
<br />
"Triệt sản thì bị ngớ ngẩn nên không ai dùng cả" (Người 18, nữ, Sơn Tây) trò đây rất ít người muốn triệt sản<br />
vì sợ ngớ ngẩn và đần" (Người 10, nam, Dương Quang)<br />
<br />
Suy nghĩ này là phổ biến từ vùng nông thôn xa xôi đến những vùng cận đô thị và cả ở tại đô thị, cả nam và<br />
nữ đều có suy nghĩ như vậy mặc dù qua phỏng vấn có rất ít người đã từng nghe giảng giải về biện pháp này<br />
cũng như không có ai được giảng cụ thể đình sản là gì và nó khác thiến ở chỗ nào. Thậm chí, nó tồn tại ở cả<br />
người làm công tác dân số của một Viện Y tế lớn tại khu vực đô thị. Điều này cho thấy vấn đề tuyên truyền cho<br />
biện pháp này là chưa đủ và người dân cũng chưa dễ dàng chấp nhập một sự mất mát như vậy. "Triệt sản nữ để<br />
biết thành nam tính, triệt sản nam thì người bị bất bình thường" (Người 19, nữ, Sơn Tây)<br />
<br />
Do có sẵn những suy nghĩ không hay như vậy về triệt sản nên những ca tai biến về triệt sản đã được lan<br />
truyền rất mau chóng trở thành chuyện đàm tiếu cho mọi người. Tác động phụ của biện pháp triệt sản trong<br />
trường hợp không thành công được đồn đại rất xa và hầu như ai ai cũng biết.<br />
<br />
"Có người triệt sản nam được một năm nhưng vợ bị chữa bệnh viện huyện cho xe tới mang đi phá thai,<br />
(Người 13, nữ, Kim Sơn)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
30 Nhu cầu kế hoạch hóa gia đình ...<br />
<br />
<br />
"Từ ngày triệt sản đến giờ chị ấy cứ gầy, đấy chị Biền đấy bây giờ cứ xanh xao" (Người số 2, Dương<br />
Quang)<br />
Hơn thế nữa ở đây còn phải tính tới tâm lý có tính chất dự phòng của dân cư. Mức chết mặc dù là thấp,<br />
nhưng đôi khi tại nạn vẫn xảy ra với trẻ con và những trường hợp đó được người ta ghi nhận và lưu ý tới. Tiện<br />
lợi của phương pháp không được ai đề cập đến trong phỏng vấn nhưng khía cạnh tiêu cực của đình sản là biện<br />
pháp vĩnh viễn được ghi nhớ ngay.<br />
"Triệt sản không có ai hưởng ứng vì ảnh hưởng đến cơ thể và nếu muốn có con thêm thì không thể có được"<br />
(Người 21, nữ, Sơn Tây)<br />
Cuối cùng, cũng phải đề cập tới một sự lo ngại nữa của dân cư có liên quan tới đời sống của họ. Tính chất<br />
kinh tế của triệt sản nổi lên rất rõ. Mặc dù người triệt sản được khuyến khích khá nhiều tiền nhưng người ta lo<br />
ngại triệt sản làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tới trí óc người ta và cản trở sự làm ăn kinh tế. Nhất là đối với người<br />
chủ gia đình, mà vai trò hiện nay rất rõ rệt trong kinh tế thị trường.<br />
"Triệt sản nam thì ngớ ngẩn, nam là người chủ gia đình bị như thế thì không làm ăn gì được nên ít người đi<br />
triệt sản" (Người 02, nữ, Kim Sơn)<br />
“Các biện pháp khác như triệt sản thì tôi thấy sợ hại người vì mình còn phải có sức khỏe để làm ăn..."<br />
(Người 08, nam, Dương Quang)<br />
Tóm lại, trong quan niệm hiện nay về đình sản nói chung vẫn là sợ tổn hại sức khỏe, một đi không trở lại và<br />
do vậy không dùng. Sự thay đổi nhận thức đó đòi hỏi những cố gắng rất lâu dài tới đây của ngành y tế.<br />
“Nhiều lúc em cứ nói đùa nhà em thôi tôi yếu thế nay anh đi đình sản đi. Nhà em bảo chứ: tao làm như thế<br />
thì tao là con gà sống thiến rồi còn gì nữa (cười). Bằng giá nào người ta cũng không đi đâu" (Người số 2, Dương<br />
Quang)<br />
IV.5 Về các biện pháp truyền thống<br />
Phần lớn những người được nghiên cứu đều cho biết họ hoặc sử dụng hai biện pháp truyền thống là tính lịch<br />
hoặc xuất tinh ngoài hoặc kiêng cữ. Ở nông thôn hai biện pháp đầu nhiều hơn còn ở đô thị quan sát thấy có<br />
nhiều người kiêng cữ hơn.<br />
"Hiện nay vợ chồng em tự tính lịch, chồng em đề xướng và quyết định " (người 04, nữ, Kim Sơn)<br />
"Tôi thích dùng biện pháp xuất tinh ngoài vì nó tiện lợi" (người 04, nam, Dương quang)<br />
Có thể thấy rằng hiệu quả của biện pháp truyền thống là rất không cao.<br />
“Ở nhà lúc đó cũng tính vòng kinh nhưng không nhớ ra lại có cháu thứ ba" (Người 03, nữ, Dương Quang)<br />
Để tự biện hộ cho mình, họ thường nêu ra khả năng tự chủ động của mình. Nam giới thường khẳng định như<br />
thế với sự vững tin rằng mình "nắm vững" bí quyết có thai cũng như vòng kinh của vợ mình, điều đó rất đáng<br />
nghi ngờ. Còn nữ giới cũng tin như thế hoặc còn tin rằng thời kỳ mất kinh sau để kéo dài.<br />
“Tôi nghĩ rằng sẽ chủ động tự tránh thai được, không cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật" (Người 14, nam,<br />
Kim Sơn)<br />
"Em thường là ba năm mới có kinh nên không phải vội dùng biện pháp tránh thai" (Người 13, nữ, Kim Sơn)<br />
Hoặc hơn thế, người ta chấp nhận có thai sau đó hút điều hòa kinh nguyệt.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích San 31<br />
<br />
<br />
"Hai vợ chồng bảo nhau tự kế hoạch lấy nếu chẳng may quá vài ngày thì sẽ tự bảo nhau ra trạm xá hút điều<br />
hòa kinh nguyệt... chính do dùng vòng không hợp" (Người 17, nữ, Sơn Tây)<br />
<br />
Phần nhiều việc sử dụng các biện pháp truyền thống hoặc kiêng đều xuất phát từ tình huống có vấn đề với<br />
biện pháp đặt vòng. Các trường hợp này đều nói lên nguyện vọng là muốn tránh thai nhưng không có biện pháp<br />
thích hợp.<br />
<br />
IV.6 Về trách nhiệm của nam và nữ<br />
<br />
Vai trò của người chồng trong việc có con, trong việc sử dụng biện pháp tránh thai nào là rất quyết định.<br />
Đồng thời, tự hình thành nên ý thức là việc tránh thai phải là việc của phụ nữ, đàn ông lo những việc lớn chứ<br />
không phải lo những việc này<br />
<br />
"Chồng quyết định hết, mình là đàn bà" (Người số 7, Dương Quang)<br />
<br />
"...đàn ông chỉ làm những việc đại sự còn nuôi con, chăm sóc con cái và làm việc vặt trong nhà là trách<br />
nhiệm của đàn bà nên không yêu cầu đàn ông áp đặt dùng biện pháp tránh thai" (Người 01, nữ, Kim Sơn)<br />
<br />
Với một cách suy nghĩ như thế, các cuộc phỏng vấn sâu cũng như phỏng vấn như phỏng vấn nhóm tập trung<br />
toát lên một cảm giác chung là đàn ông nắm được về các biện pháp rất sơ sài. Chủ yếu họ có nghe nói về các<br />
biện pháp, có thể sử dụng được túi cao su nhưng không dùng, thường tin tưởng rằng mình có thể sử dụng biện<br />
pháp xuất tinh ngoài được và dứt khoát không chấp nhận đình sản. Với sự tin tưởng về đặc quyền của mình, đàn<br />
ông lại rất có thái độ với các biện pháp mà vợ mình sử dụng, trong khi đó phụ nữ lại rất lưu tâm đến ý kiến và ý<br />
nguyện của chồng.<br />
<br />
“Đặt vòng thuận lợi cho đàn ông, nếu dùng bao cao su thì chắc chắn đàn ông người ta tư tưởng không thoải<br />
mái đâu, bắt buộc người ta phải dùng, mình không ưa vòng thì đàn ông người ta bắt buộc phải làm; chứ chắc<br />
chắn người ta không thoải mái đâu” (Người số 2, Kim Sơn)<br />
<br />
Và chương trình KHHGĐ ở Việt Nam cũng chủ yếu chú trọng vào phụ nữ mà không quan tâm nhiều lắm<br />
đến nam giới. Trong khi đàn ông mới là người quyết định cuối cùng ở đây. Dù chuyển dịch đối tượng có lẽ cũng<br />
là điều cần thiết trong tương lai.<br />
<br />
V. Nguồn cung cấp các biện pháp KKHGĐ<br />
<br />
Vậy hệ thống cung cấp các dịch vụ KHHGD hiện nay như thế nào? Nó cung cấp được gì cho người sử<br />
dụng?<br />
<br />
Các kết quả nghiên cứu cho thấy với sự gia tăng đầu tư của nhà nước cho chương trình dân số và KKHGĐ,<br />
có thể nói ở tám khu vực đồng bằng các biện pháp cơ bản là có ở các đơn vị cấp cơ sở. Tại các trạm y tế xã<br />
người ta cỏ thể tìm thấy được biện pháp như túi cao su, thuốc, đặt vòng theo định kỳ và triệt sản được qua trạm<br />
y tế chuyển đi nơi khác. Các đơn vị cơ sở cũng đã triển khai việc tuyên truyền một cách rộng lớn về KHHGĐ,<br />
kể cả loa truyền thanh cũng như đến từng nhà vận động.<br />
<br />
Thế nhưng đây mới chỉ là về cơ bản. Cũng đã thấy rõ ràng có một số lớn người vẫn chưa nắm được cụ thể<br />
các biện pháp hoạt động như thế nào và họ cũng không rõ là họ có được cung cấp không, và trạm y tế xã có<br />
những gì. Xảy ra nghịch lý là một bên có và than phiền không có người sử dụng. Còn một bên cần và không biết<br />
kiếm đâu ra. Người sử dụng chưa cảm thấy việc cung cấp các biện pháp là đủ tiện lợi và kín đáo để khắc phục<br />
những nghi ngại, e dè và mặc cảm trong việc chấp nhận những biện pháp tránh thai có hiệu quả hoặc thích hợp<br />
đối với họ.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
32 Nhu cầu kế hoạch hoa gia đình ...<br />
<br />
<br />
"Em có nghe nói có những biên pháp khác nhưng do đã từng dùng vòng rồi cũng không chú ý và đi mua thì<br />
ngại lắm rất xấu hổ. Giá cả thì không biết nhưng khi đi qua hiệu thuốc em thấy có bán nhưng không dám hỏi"<br />
(Người 12, nữ, Kim Sơn)<br />
Số liệu của các cuộc nghiên cứu lớn (Bảng 3.) cũng cho thấy một sự thay đổi lớn trong vai trò của các đơn<br />
vị cung cấp dịch vụ tránh thai. Vai trò của các cấp cơ sở cũng như của các nguồn cung cấp tư nhân đã gia tăng<br />
mạnh mẽ, đặc biệt là đối với những biện pháp phi lâm sàng, trong khi của các đơn vị tuyến huyện và trên nữa<br />
giảm đi đáng kể. Sự gần gũi của việc cung cấp đến người dân hơn rõ ràng góp phần làm giảm đáng kể những trở<br />
ngại trong công việc cung cấp kịp thời cho sử dụng.<br />
<br />
<br />
Bảng 3. Tỷ trọng người sử dụng các biện pháp tránh thai phân theo nguồn cung cấp<br />
<br />
<br />
Biện pháp lâm sàng Biện pháp phi lâm sàng<br />
<br />
1988 1995 1988 1995<br />
Trạm y tế xã, phường và 18.84 56.42 44.92 30.56<br />
trung tâm KHHGD<br />
<br />
Bệnh viện 52.75 32.32 50.91 3.91<br />
Huyện 36.86 33.1<br />
Tỉnh 12.3 15.75<br />
Trung ương 3.59 2.06<br />
Cơ sở y tế khác 1.6 13.16<br />
Đội KHHGĐ 4.46 3.57<br />
Cán bộ KKHGĐ 2.13 7.44<br />
Công tác viên D/KKHGĐ 0.06 15.36<br />
Tư nhân 0.14 3.52 23.29 34.21<br />
Khác 0.14 0.11 0.35 1.02<br />
Không biết 0.11 0.02 1.3 0.03<br />
Không xác định 0.88 184<br />
Cộng 100 100 100 100<br />
<br />
<br />
Nguồn: 1988 rút từ VN/DSH/88,UB DSQG,1990<br />
1995 rút từ Nghiên cứu biến động dân số và KHHGĐ 1/3/1995, TCTK, 12/1995<br />
<br />
Trên nền tảng một sự thay đổi như vậy về nguồn cung cấp, điểm rất đáng đặt ra là tại sao nhu cầu về<br />
KKHGD không được đáp ứng vẫn còn cao như vậy. Thu nhận được từ nghiên cứu khẳng định rằng các đơn vị<br />
cung cấp dịch vụ tránh thai công cấp cơ sở mới chỉ làm tròn việc cung cấp vòng tránh thai, nói từ thuật ngữ kinh<br />
tế thì việc nhấn mạnh này đã lên tới độ biến tế (marginal) còn biện pháp khác thì chưa. Nó cũng không có sự<br />
phổ biến đầy đủ các kiến thức về các biện pháp tránh thai để người dân nắm được và cân nhắc sự lựa chọn của.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Phạm Bích San 33<br />
<br />
<br />
mình. Cơ chế bao cấp đặt vấn đề là nếu người ta cần, đến mình thì mình cung cấp. Cơ chế thị trường là đến<br />
người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của họ và khi cần, góp phần tạo ra nhu cầu mới. Sự quan tâm lớn lao của nhà<br />
nước cho phép hệ thống KKHGĐ công các cấp có khả năng cung cấp các biện pháp cho người sử dụng nhưng<br />
chưa có cách nào để đưa đến họ một cách hữu hiệu. Sự chuyển đổi cách hoạt động của hệ thống cung cấp dịch<br />
vụ tránh thai sẽ là khâu cơ bản của thời kỳ sắp tới đây để giải quyết vấn đề những nhu cầu chưa được đáp ứng.<br />
Kết luận<br />
Cuộc nghiên cứu về nhu cầu không được đáp ứng đối với KHHGĐ cho thấy những vấn đề trong việc triển<br />
khai việc cung cấp các dịch vụ cho người sử dụng cùng một triển vọng lớn lao để tăng tỷ lệ người chấp nhận các<br />
biện pháp KHHGĐ trong thời gian sắp tới. Có những vấn đề sau đây cần được lưu tâm trong thời gian sắp tới ờ<br />
Việt Nam.<br />
1. Sự đầu tư tiếp tục cho vòng tránh thai không mang lại hiệu quả cao cho chương trình dân số. Hiện nay chỉ<br />
nên hoàn thiện chất lượng của việc cung cấp vòng tránh thai.<br />
2. Sự gia tăng vòng và đình sản là tiện lợi cho các giới vốn quen hoạt động trong lĩnh vực này từ trước và là<br />
sự ngần ngại đối với thị trường. Giữa triệt sản và vòng người sử dụng chọn biện pháp truyền thống, hoặc không<br />
biện pháp nào cả. Đào tạo lại cán bộ trong hệ thống công cung cấp dịch vụ KHHGĐ là cần thiết, cả về kiến thức<br />
lẫn ứng xử với thị trường.<br />
3. Sự hiểu biết của nhiều người đối với các biện pháp hiện đại khác là thấp. Do vậy, việc tuyên truyền thấu<br />
đáo, chắc chắn các biện pháp hiện đại cho nhân dân rất nên được coi trọng. Sự tuyển truyền đại trà hiện nay đã<br />
tỏ ra không cần thiết vì đòi hỏi của nhân dân đã đến một mức mới nhưng hoạt động cung cấp kiến thức chưa đáp<br />
ứng được nhu cầu này.<br />
4. Giữa nông thôn và đô thị có sự khác biệt nhất định trong việc có nhiều con trong số những người có nhu<br />
cầu không được đáp ứng. Ở nông thôn chủ yếu là do nhu cầu giới tính của c