intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bộ công cụ kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực qua dạy học chủ đề Kí Việt Nam hiện đại lớp 12

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:70

30
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này sẽ giúp cho giáo viên chủ động hơn trong việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học và góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học từ đó từng bước nâng cao chất lượng dạy học chủ đề Kí Việt Nam hiện đại nói riêng và môn Ngữ văn trong nhà trường nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bộ công cụ kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực qua dạy học chủ đề Kí Việt Nam hiện đại lớp 12

  1.      SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài:  XÂY DỰNG BỘ CÔNG CỤ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ  HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN  PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC QUA DẠY HỌC CHỦ ĐỀ  KÍ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 12                               Giáo viên:  Nguyễn Thị Lưu Tổ:             Văn – Ngoại ngữ Năm học:  2020 – 2021 Số điện thoại: 0977911233
  2.                                               Năm học 2020 – 2021 MỤC LỤC 2
  3. PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Hội nghị  lần thứ  8 Ban Chấp hành Trung  ương Đảng Cộng sản Việt   Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị  quyết số  29/NQ – TW về  đổi mới căn bản,   toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa   trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập   quốc tế. Cùng với đó, ngày 28/11/2014 Quốc hội cũng ban hành Nghị  quyết   88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp   phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Ngày 27/3/2015, Thủ  tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 404/QĐ – TTg phê duyệt Đề án đổi  mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Thực hiện Nghị quyết của   Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ  Giáo dục và đào  tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới – chương trình dạy học  theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực người học để  nâng cao chất lượng  giáo dục, đáp ứng đòi hỏi thực tế và bắt kịp xu hướng của thời đại. 1.2. Chương trình, sách giáo khoa mới đã có sự thay đổi căn bản, toàn diện  về quan điểm xây dựng chương trình, mục tiêu chương trình, nội dung giáo dục,  phương pháp giáo dục, phương tiện, thiết bị dạy học và đặc biệt là đã kéo theo   sự  thay đổi về  hình thức, phương pháp, công cụ  đánh giá kết quả  học tập của   học sinh. Nghị Quyết 29 của Trung ương Đảng yêu cầu: “Đổi mới căn bản hình  thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả  giáo dục, đào tạo, bảo   đảm trung thực, khách quan… Phối hợp sử  dụng kết quả  đánh giá trong quá  trình học với đánh giá cuối học kì, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự  đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã   hội”. Đổi mới kiểm tra đánh giá để  điều chỉnh quá trình dạy học là động lực  của đổi mới phương pháp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Nắm bắt   được tầm quan trọng đó của việc đổi mới kiểm tra đánh giá, ngày 26/8/2020 Bộ  Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư  26/2020 TT – BGDĐT sửa đổi, bổ  sung một số  điều của Quy chế  đánh giá xếp loại học sinh trung học cơ  sở  và   trung học phổ thông kèm theo TT58/2011. Sự ra đời một cách kịp thời của thông   tư đã cho ta thấy được đổi mới kiểm tra đánh giá là 1 khâu quan trọng trong việc  đổi mới phương pháp dạy học. Muốn đổi mới được kiểm tra đánh giá, người   giáo viên phải được thấm nhuần từ những quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh  giá, nguyên tắc, quy trình, hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng   phát triển phẩm chất, năng lực học sinh từ đó biết cách xây dựng công cụ, kiểm  tra đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh về phẩm chất, năng lực. 1.3. Xuất phát từ vị trí, đặc trưng của chủ đề  Kí Việt Nam hiện đại trong  chương trình Ngữ văn lớp 12. 3
  4. Trong chương trình Ngữ  văn lớp 12 bên cạnh những thể  loại thơ, truyện,   kịch… thì sách giáo khoa còn đưa vào 2 tác phẩm kí tiêu biểu, nổi bật là Người   lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân thuộc loại tùy bút và Ai đã đặt tên cho dòng   sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc loại bút kí. Đây là 2 tác phẩm hay của  những cây bút lớn có vị trí trong nền văn học Việt Nam. Trong chương trình ngữ  văn trung học phổ  thông các em chỉ  được học có 3 tác phẩm kí: Vào phủ  chúa   Trịnh (kí sự) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác năm lớp 11 và 2 tác phẩm   này  ở  chương trình lớp 12. Vì vậy, so với các tác phẩm thuộc thể  loại thơ,   truyện, kịch thì kí là 1 thể loại có nhiều sự lạ lẫm và tương đối khó đối với cả  giáo viên và học sinh. Kí là thể  văn viết về  những người thật, việc thật tuy  nhiên nét độc đáo của kí là  ở  cách nhà văn tái hiện những sự  việc đó một cách  sinh động, hấp dẫn trong tác phẩm của mình. Vì vậy bên cạnh việc tôn trọng sự  thật thì yếu tố liên tưởng, tưởng tượng, cái tôi tài hoa, giàu cảm xúc của nhà văn  cũng là yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn của thể kí.  Để hướng dẫn học   sinh cảm nhận cái tôi độc đáo của các tác giả trong tác phẩm kí quả thực là một   việc không dễ. Thế nên việc dạy các tác phẩm này như thế nào để có hiệu quả  luôn   là   mối   quan   tâm,   trăn   trở   của   nhiều   giáo   viên.   Bên   cạnh   việc   tìm   các  phương pháp dạy học thích hợp, phát huy được năng lực học sinh thì việc xây   dựng những công cụ  kiểm tra đánh giá phù hợp trong bài học kí cũng góp một  phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy học những tác phẩm này. Nó  sẽ  giúp giáo viên thu nhận thông tin và có sự  điều chỉnh cách dạy phù hợp, kịp  thời nhằm giúp nâng cao hiệu quả dạy học. Từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề  tài  Xây dựng bộ công   cụ  kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển   phẩm chất, năng lực qua dạy học chủ đề Kí Việt Nam hiện đại lớp 12. Hi vọng  đề  tài này sẽ  giúp cho giáo viên chủ  động hơn trong việc thực hiện đổi mới  kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học và góp phần vào việc đổi mới phương   pháp dạy học từ  đó từng bước nâng cao chất lượng dạy học chủ  đề  Kí Việt  Nam hiện đại nói riêng và môn Ngữ văn trong nhà trường nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề  nghiên cứu Xây dựng bộ  công cụ  kiểm tra đánh giá kết quả  học   tập của học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực qua dạy học   chủ đề Kí Việt Nam hiện đại lớp 12 đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu  như: Trong bài “Đổi mới đánh giá kết quả  học tập môn Ngữ  văn theo yêu cầu   phát triển năng lực”,  tác giả  Đỗ  Ngọc Thống đã bàn tới mục tiêu và các đặc  trưng của đánh giá năng lực. Tác giả đã chỉ ra những năng lực đặc thù của môn   Ngữ văn là năng lực tiếp nhận văn bản (đọc, nghe) và năng lực tạo lập văn bản  (nói, viết). Cuốn Giáo trình Kiểm tra đánh giá trong dạy học (2017) của nhóm tác giả  Sái Công Hồng, Lê Thái Hưng, Lê Thị  Hoàng Hà, Lê Đức Ngọc đã cung cấp  4
  5. những hiểu biết cơ bản về kiểm tra đánh giá như  khái niệm, mục đích, vai trò,   nguyên tắc; lập kế  hoạch kiểm tra đánh giá, phương pháp, công cụ  kiểm tra  đánh giá… Gần đây nhất là công trình luận án tiến sĩ khoa học giáo dục của tác giả  Trần Thị Kim Dung với đề tài “Xây dựng một số công cụ đánh giá năng lực đọc   hiểu của học sinh lớp 9 trong môn Ngữ  văn”. Công trình đã xây dựng được  những bộ công cụ kiểm tra đánh giá hiện đại nhằm phát triển năng lực đọc hiểu   cho học sinh qua các kiểu loại văn bản khác nhau. Tuy nhiên, công trình cũng chỉ  mới dừng lại ở việc đánh giá năng lc]j đọc hiểu chứ chưa đi sâu nghiên cứu các  công cụ đánh giá năng lực viết, nói và nghe cua học sinh. Tuy nhiên các tác giả  chỉ  mới đề  cập  ở  mức độ  khái quát, có tính chất lí  luận, cung cấp những kiến thức chung về  kiểm tra, đánh giá theo hướng phát   triển năng lực học sinh chứ chưa đi sâu ứng dụng các công cụ kiểm tra đánh giá   đó vào các đơn vị bài học cụ thể và đặc biệt là chủ đề Kí Việt Nam hiện đại. 3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề  này là nhằm x ây dựng được bộ  công cụ  kiểm tra đánh giá kết quả  học tập của học sinh theo định hướng phát  triển phẩm chất, năng lực qua dạy học chủ đề Kí Việt Nam hiện đại lớp 12. Từ  đó cung cấp cho giáo viên bộ  công cụ  để  tiến hành kiểm tra đánh giá việc học   tập của học sinh một cách thuận lợi, hiệu quả. Đồng thời nó cũng tích cực hóa   hoạt động học tập của người học sinh. Đối tượng nghiên cứu: hai tác phẩm kí Việt Nam hiện đại trong chương   trình Ngữ văn 12: Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho   dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu  ­ Xây dựng bộ công cụ kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo   định hướng phát triển phẩm chất, năng lực qua dạy học chủ  đề  Kí Việt Nam   hiện đại lớp 12 5. Phương pháp nghiên cứu: ­ Phương pháp thực nghiệm ­ Phương pháp đối chứng ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu 6. Phạm vi nghiên cứu ­ Phạm vi kiến thức: xây dựng công cụ đánh giá trong việc dạy học chủ đề  kí Việt Nam hiện đại. ­ Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh lớp 12  ở các trườngTHPT trên địa   bàn. 5
  6. ­ Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020. 7. Đóng góp của đề tài Đề tài đem lại cho giáo viên và học sinh những lợi ích thiết thực như sau: * Đối với giáo viên: ­ Đa dạng hóa các hình thức, công cụ  kiểm tra đánh giá học sinh trong các  giờ học. ­ Nắm bắt được kịp thời năng lực học của các em để  có phương án điều   chỉnh việc dạy và học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh vì sự  tiến bộ  của người học. ­ Tiết kiệm được thời gian trong việc dạy học trên lớp và chấm bài kiểm   tra ở nhà. ­ Giờ  học diễn ra sôi nổi và hứng thú với học sinh hơn tránh được những  giờ văn nặng nề, nhàm chán. * Đối với học sinh: ­ Có thể tự đánh giá năng lực của bản thân và đánh giá kết quả của bạn để  từ đó điều chỉnh việc học tập sao cho đạt kết quả tốt hơn. ­ Có thể  đánh giá ngược lại đối với giáo viên để  có được sự  phối hợp   nhuần nhuyễn giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học . ­ Hứng thú hơn với các giờ học văn. ­ Học sinh được rèn luyện năng lực tự học, tự chủ, năng lực giải quyết vấn   đề, sáng tạo, năng lực giao tiếp, hợp tác – những năng lực chung của người học   cần được hình thành, phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông mới. 8. Cấu trúc của SKKN Gồm 3 phần: Phần I: Đặt vấn đề Phần II: Nội dung nghiên cứu Phần III: Kết luận, kiến nghị 6
  7. PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá: Kiểm tra là một cách tổ  chức đánh giá (hoặc định giá), chú ý nhiều đến  việc xây dựng công cụ  đánh giá như  câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra. Các công cụ  này được xây dựng trên một căn cứ  xác định, chẳng hạn như  đường phát triển   năng lực hoặc các rubric trình bày các tiêu chí đánh giá. Đánh giá là một quá trình thu thập, tổng hợp và diễn giải thông tin về  đối  tượng cần đánh giá (ví dụ  kiến thức, kĩ năng, năng lực của học sinh, kế hoạch  dạy học, chính sách giáo dục), qua đó hiểu biết và đưa ra được các quyết định  cần thiết về đối tượng. 1.1.2. Hình thức đánh giá Có hai hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh được vận   dụng trong nhà trường hiện nay là đánh giá thường xuyên (đánh giá quá trình) và   đánh giá định kì (đánh giá tổng kết). Đánh giá thường xuyên là hoạt động đánh giá diễn ra trong tiến trình thực  hiện hoạt động giảng dạy môn học, cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên   và học sinh nhằm mục tiêu cải thiện hoạt động giảng dạy, học tập. Đánh giá  thường xuyên được xem là đánh giá vì quá trình học tập hoặc vì sự tiến bộ của  người học. Đánh giá thường xuyên được thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy   học và giáo dục, không bị  giới hạn bởi số  lần  đánh giá. Mục đích chính là  khuyến khích học sinh nỗ lực học tập, vì sự tiến bộ của người học. Đánh giá định kì là đánh giá kết quả  giáo dục của học sinh sau một giai   đoạn học tập, rèn luyện nhằm xác định mức độ  hoàn thành nhiệm vụ  học tập  của học sinh so với yêu cầu cần đạt so với quy định trong chương trình giáo dục  phổ  thông và sự  hình thành phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Đánh giá   định kì thường được tiến hành sau khi kết thúc một giai đoạn học tập, nhằm  đánh giá mức độ thành thạo của học sinh  ở các yêu cầu cần đạt về phẩm chất,  năng lực 1.1.3. Phương pháp kiểm tra, đánh giá Để kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh   đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ  thông mới, người giáo viên có   thể sử dụng các phương pháp sau: * Phương pháp kiểm tra viết: Phương pháp kiểm tra phổ  biến, được sử  dụng đồng thời với nhiều học sinh cùng một thời điểm, được sử  dụng sau khi  7
  8. học xong một phần của chương, một chương…, học sinh phải diễn đạt câu trả  lời bằng ngôn ngữ viết. * Phương pháp quan sát: phương pháp đề  cập đến việc theo dõi học sinh   thực hiện các hoạt động hoặc nhận xét một hoạt động do học sinh làm ra. * Phương pháp hỏi đáp: Phương pháp giáo viên đặt câu hỏi và học sinh trả  lời câu hỏi nhằm rút ra những kết luận, những tri thức mới mà học sinh cần   nắm, hoặc nhằm tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng, đào sâu những tri thức  mà học sinh đã học. * Phương pháp đánh giá hồ  sơ  học tập: đánh giá thông qua tài liệu minh   chứng cho sự tiến bộ của học sinh, trong đó học sinh từ đánh giá bản thân mình,   tự  ghi lại kết quả  học tập trong quá trình học tập, tự  đánh giá, đối chiếu với  mục tiêu học tập đã đặt ra để nhận ra sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ, tìm nguyên   nhân và cách khắc phục trong thời gian tới. * Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập: đánh giá kết quả  của học  sinh khi những kết quả  ấy được thể hiện bằng các sản phẩm như bức vẽ, bản   đồ, đồ  thị…Sản phẩm là các bài làm hoàn chỉnh, được học sinh thể  hiện qua   việc xây dựng, sáng tạo, thể hiện ở việc hoàn thành công việc một cách có hiệu  quả. Đánh giá sản phẩm được dựa trên ngữ cảnh cụ thể của hiện thực. Căn cứ vào mục đích, thời điểm và yêu cầu của từng hình thức đánh giá mà   người giáo viên có thể  lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp. Mỗi phương  pháp lại có những công cụ đánh giá phù hợp. 1.1.4. Công cụ đánh giá Công cụ đánh giá là các phương tiện được sử dụng trong quá trình đánh giá  nhằm đạt được mục đích đánh giá. Tính năng cơ bản của các công cụ  đánh giá   là căn cứ để thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh, cung cấp cho  giáo viên và học sinh trong quá trình đánh giá và tự đánh giá. Việc lựa chọn công  cụ đánh giá phụ thuộc vào mục đích đánh giá và phương pháp đánh giá. 1.1.5. Đánh giá năng lực Năng lực là tổ  hợp các thuộc tính của cá nhân thể  hiện sự  kết hợp nhuần  nhuyễn giữa kiến thức, kĩ năng và những điều kiện sinh học – tâm lí của một cá  thể (nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân…) để thực hiện có hiệu quả  một hoạt động theo yêu cầu và mục đích đã đặt ra trong thực tiễn, năng lực  được hình thành và phát triển dựa trên tố  chất sẵn có và quá trình học tập, rèn  luyện của mỗi người. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh hiện nay đang có 2 hướng tiếp  cận: đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ  thông hiện hành và đánh giá dựa vào năng lực chú trọng sản phẩm cuối cùng  của người học trong mối quan hệ với mục tiêu môn học và khả năng giải quyết   8
  9. vấn đề hoặc tình huống của thực tiễn. Chúng ta có thể thấy rõ được khác nhau  giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng qua bảng sau: Tiêu chí so  Đánh giá năng lực Đánh giá kiến thức, kĩ  sánh năng 1.   Mục   đích  ­   Đánh   giá   khả   năng   người   học  ­   Xác   định   vệc   đạt   được  đánh   giá  vận dụng các kiến thức, kĩ năng  kiến thức, kĩ năng theo mục  trọng tâm đã học được vào giải quyết vấn  tiêu   của   chương   trình   giáo  đề thực tiễn của cuộc sống. dục; ­ Vì sự  tiến bộ của người học so   ­   Đánh  giá,  xếp hạng  giữa  với chính mình. những người học với nhau. 2.   Ngữ   cảnh  Gắn   với   ngữ   cảnh   học   tập   và  ­ Gắn với nội dung học tập  đánh giá thực   tiễn   cuộc   sống   của   người  (những   kiến   thức,   kĩ   năng,  học. thái độ) học được trong nhà  trường. 3.   Nội   dung  ­ Những kiến thức, kĩ năng, thái  ­ Những kiến thức, kĩ năng,  đánh giá độ   ở  nhiều môn học, nhiều hoạt  thái độ   ở  một môn học cụ  động   giáo   dục   và   những   trải  thể. nghiệm của bản thân người học  ­   Quy   chuẩn   theo   việc  trong cuộc sống xã hội (tập trung  người đó có đạt hay không  vào năng lực thực hiện); một nội dung đã được học. ­ Quy chuẩn theo các mức độ phát  triển năng lực của người học. 4.   Công   cụ  Nhiệm vụ, bài tập gắn với tình  Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ  đánh giá huống, bối cảnh thực tiễn. trong   tình   huống   hàn   lâm  hoặc tình huống thực. 5. Thời điểm  Đánh   giá   ở   mọi   thời   điểm   của  Thường   diễn   ra   ở   những  đánh giá quá trình dạy học, chú trọng đến  thời   điểm   nhất   định   trong  đánh giá trong khi học. quá trình dạy học, đặc biệt  là trước hoặc trong khi dạy. 6.   Kết   quả  ­ Năng lực người học phụ  thuộc  ­   Năng   lực   của   người   học  đánh giá vào  độ  khó của nhiệm vụ  hoặc  phụ thuộc vào số  lượng câu  bài tập đã hoàn thành. hỏi,   nhiệm   vụ   hay   bài   tập  ­ Thực hiện được nhiệm vụ  càng  đã hoàn thành. khó và phức tạp hơn thì sẽ  được  ­ Càng đạt được nhiều đơn  coi là có năng lực cao hơn. vị   kiến   thức,   kĩ   năng   thì  càng được coi là có năng lực  cao hơn. 9
  10. 1.2. Vai trò của kiểm tra đánh giá trong dạy học phát triển năng lực Dạy học theo hướng phát triển năng lực người học là một trong những  điểm nổi bật của chương trình giáo dục phổ  thông 2018. Dạy học phát triển  năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt   động học, tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình này. Trong đó nhấn mạnh  người học cần phải đạt được mức năng lực như  thế  nào sau khi kết thúc một  giai đoạn, 1 quá trình học tập. Vì vậy, dạy học theo hướng phát triển năng lực  không thể  tách rời hoạt động kiểm tra đánh giá. Hay nói cách khác, kiểm tra  đánh giá là một khâu quan trọng của hoạt động dạy học, là công cụ  hành nghề  của giáo viên. Ngoài ra nó còn là một bộ phận quan trọng của quản lí giáo dục,   quản lí chất lượng dạy và học. Để dạy học phát triển năng lực học sinh một cách hiệu quả, bên cạnh việc   đánh giá kết quả  kết quả  học tập (đánh giá tổng kết, đánh giá định kì) để  thu   nhận những gì học sinh đạt được tại thời điểm cuối một giai đoạn giáo dục và  được đối chiếu với chuẩn đầu ra nhằm xác nhận kết quả đó so với yêu cầu cần   đạt của bài học như lâu nay thì người giáo viên còn phải chú trọng đến đánh giá   quá trình để phát hiện kịp thời sự tiến bộ của học sinh và vì sự tiến bộ của học  sinh từ đó có sự điều chỉnh phù hợp hoạt động dạy và học. Đánh giá là hoạt động được diễn ra thường xuyên trong quá trình dạy học.  Theo quan điểm hiện đại về  kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm  chất, năng lực học sinh thì việc đánh giá cần phải vì sự  phát triển học tập và   xem đánh giá như là một hoạt động học tập. Đánh giá vì học tập là việc đánh giá cung cấp thông tin để  giáo viên và  người học cải thiện chất lượng dạy học. Kết quả  này sẽ  cung cấp cho giáo  viên điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh và cung cấp cho học sinh thông  tin phản hồi để  tiếp tục việc học của mình ở  các giai đoạn học tập tiếp theo.  Với cách đánh giá này, giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong đánh giá kết quả học   tập, nhưng người học cũng được tham gia vào quá trình đánh giá, có thể tự đánh  giá hoặc đánh giá lẫn nhau dưới sự hướng dẫn của giáo viên, qua đó họ tự đánh   giá được quá trình học tập của mình để điều chỉnh hoạt động học tập được tốt   hơn. Đánh giá như  là một hoạt động học tập diễn ra thường xuyên trong quá  trình dạy học (đánh giá quá trình) trong đó giáo viên tổ chức để học sinh tự đánh   giá và đánh giá đồng đẳng, coi đó như  là một hoạt động học tập để  học sinh   thấy được sự tiến bộ của chính mình so với yêu cầu cần đạt của bài học, từ đó  học sinh tự điều chỉnh việc học.             Với đánh giá này học sinh giữ  vai trò  chủ  đạo trong quá trình đánh giá, học sinh tự  giám sát hoặc theo dõi quá trình  học tập của mình, tự so sánh đánh giá kết quả học tập của mình theo những tiêu  chí do giáo viên cung cấp. Kết quả đánh giá này có vai trò như một nguồn thông  tin phản hồi để người học tự ý thức khả năng học tập của mình đang ở mức độ  10
  11. nào, từ đó thiết lập mục tiêu học tập của cá nhân và lên kế hoạch học tập tiếp   theo. Tóm lại, kiểm tra đánh giá có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học   phát triển, phẩm chất năng lực cho học sinh, góp phần thúc đẩy sự  tiến bộ của   người học và chất lượng của quá trình dạy học. 2. Cơ sở thực tiễn đề tài 2.1. Chương trình Ngữ văn 2018 theo định hướng phát triển năng lực 2.1.1. Quan điểm xây dựng chương trình Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo 5 quan điểm sau: Thứ nhất: Tuân thủ các quy định cơ bản được nêu trong chương trình tổng   thể, xây dựng một chương trình chung cho cả  3 cấp học. Quan điểm này giúp   cho việc xây dựng chương trình môn học Ngữ văn thống nhất với chương trình   tổng thể, nhất quán với các môn học khác. Thứ  hai: Chương trình được xây dựng dựa trên các cơ  sở  khoa học như:  Kết quả nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ  văn hiện đại; Thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn  học Việt Nam; Kinh nghiệm xây dựng chương trình môn Ngữ  văn của Việt   Nam và cập nhật xu thế  quốc tế  trong phát triển chương trình nói chung và   chương trình môn Ngữ  văn nói riêng. Cơ  sở  cuối cùng là phải căn cứ  vào thực   tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hóa Việt Nam. Thứ  ba: Lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe)  làm trục chính xuyên suốt cả  ba cấp học. Lần đầu tiên việc xây dựng chương   trình môn học này được thống nhất cùng một hệ  thống là kĩ năng giao tiếp.  Trước đây chương trình được xây dựng tách rời  ở  ba cấp học, mỗi cấp học   được xây dựng theo một tiêu chí riêng. Chương trình tiểu học xây dựng theo chủ  đề, chủ điểm; chương trình trung học cơ sở xây dựng theo sáu kiểu văn bản còn  chương   trình   trung   học   phổ   thông   xây   dựng   theo   thể   loại.   Việc   xây   dựng  chương trình thống nhất theo trục rèn luyện kĩ năng giao tiếp sẽ đảm bảo được  việc tích hợp tốt hơn, thể  hiện rõ đặc điểm của chương trình phát triển năng  lực, không lấy việc trang bị kiến thức làm mục tiêu giáo dục. Thứ  tư: chương trình được xây dựng theo hướng mở. Tính chất mở  của  chương trình được thể  hiện: Một là không quy định chi tiết về  nội dung dạy   học, các văn bản cụ  thể  mà chỉ  quy định những yêu cầu cần đạt về  đọc, viết,  nói, nghe cho mỗi lớp, quy định khối kiến thức cơ  bản, cốt lõi về  tiếng Việt,   văn học và một số  văn bản, tác phẩm có vị  trí, ý nghĩa quan trọng của văn học  dân tộc. Hai là những văn bản, tác phẩm được chương trình nêu lên trong phần  cuối văn bản chỉ  là sự  gợi ý về  ngữ  liệu, minh họa về  thể  loại, kiểu loại văn  bản. Ba là cho phép các tác giả  sách giáo khoa chủ  động, sáng tạo trong việc   triển khai các nội dung dạy học cụ  thể  theo yêu cầu phát triển chương trình.  11
  12. Bốn là cho phép giáo viên được lựa chọn sách giáo khoa. Năm là việc đánh giá  kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học mà lấy  yêu cầu cần đạt làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá. Thứ năm chương trình cần đáp ứng yêu cầu kế thừa và đổi mới, phát triển.  Chương trình nào  cũng  được xây  dựng trên  cơ   sở   kế  thừa  từ   chương  trình  truyền thống tuy nhiên cũng cần đổi mới để  đáp ứng sự  thay đổi của khoa học   và thực tiễn cuộc sống. 2.1.2. Mục tiêu chương trình Nếu như  chương trình 2006 lấy mục tiêu chính là cung cấp kiến thức, kĩ   năng, thái độ  thì chương trình 2018 tập trung vào hai nội dung: phẩm chất và  năng lực. Mục tiêu chung của môn học Ngữ văn được quy định như sau: Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp: yêu nước,   nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành  nhân cách và phát triển cá tính. Chương trình môn Ngữ  văn giúp học sinh khám  phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn  phong phú, có quan niệm sống và  ứng xử  nhân văn; có tình yêu đối với tiếng   Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ  gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn  hóa nhân loại. Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ  và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.  Đặc biệt, chương trình môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ  và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; phát triển tư duy   hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người  có văn hóa; có hệ thống kiến thức nền tảng về tiếng Việt và văn học, biết tạo   lập các văn bản thông dụng; biết đánh giá các văn bản văn học và các sản phẩm   giao tiếp trong cuộc sống. Mục tiêu của cấp học sau tiếp tục phát triển phẩm chất, năng lực của cấp   học trước nhưng có thêm một số yêu cầu cao hơn cấp trước. 2.1.3. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực Để xác định yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực cần căn cứ vào: Mục  tiêu chương trình giáo dục phổ thông và mục tiêu chương trình môn học; Chuẩn  kiến thức kĩ năng của chương trình Ngữ văn hiện hành và chương trình Ngữ văn  của một số quốc gia. Môn Ngữ  văn là một trong những môn học trực tiếp hình thành và phát  triển cả  5 phẩm chất chủ  yếu cho học sinh  ở  tất cả  các cấp học. Các phẩm   chất này được môn Ngữ văn hình thành và phát triển cho học sinh chủ yếu thông   qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác  phẩm văn học. 12
  13. Môn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển  toàn diện các năng lực chung đã được nêu trong chương trình tổng thể. Những  năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung   dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học mới với   việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của người học trong   hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản. Bên cạnh việc phát triển năng lực chung thì môn Ngữ  văn có  ưu thế  đặc  biệt trong việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực ngôn ngữ và năng  lực văn học. Năng lực ngôn ngữ chủ yếu thể hiện  ở việc sử dụng tiếng Việt, sử dụng   ngôn ngữ  tự  nhiên qua giao tiếp hàng ngày, thể  hiện qua các kĩ năng đọc, viết,  nói và nghe các văn bản thông thường. Năng lực văn học là năng lực tiếp nhận, giải mã cái hay, cái đẹp của văn  bản văn học, thể  hiện chủ  yếu  ở  việc học sinh biết  đọc hiểu ngôn từ  nghệ  thuật thông qua các văn bản văn học; nhận biết, lí giải, nhận xét và đánh giá  những đặc sắc về hình thức văn bản văn học, từ đó biết tiếp nhận đúng và sáng  tạo các thông điệp nội dung. Năng lực văn học còn thể hiện ở khả năng tạo lập   văn bản, biết cách biểu đạt kết quả  cảm nhận, hiểu và lí giải giá trị  thẩm mĩ  của văn bản văn học, bước đầu có thể tạo ra được các sản phẩm văn học. Năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học được hình thành thông qua các hoạt  động đọc, viết, nói và nghe theo các yêu cầu từ thấp tới cao. 2.1.4. Những thay đổi cơ  bản về  nội dung của chương trình 2018 so với   chương trình hiện hành 2006. Chương trình Ngữ  văn 2016 về  cơ  bản vẫn tiếp cận theo hướng dạy học   nội dung, xuất phát từ  các vấn đề  chính của khoa học văn học và ngữ  học để  gọt bớt, thu nhỏ  cho các cấp học phổ  thông. Vì thế, nhiều nội dung vẫn nặng   nề, hàn lâm thiếu thiết thực. Hơn nữa chương trình lại được xây dựng với các  trục khác nhau. Tiểu học lấy nội dung chủ đề làm trục tích hợp dạy các kĩ năng  ngôn ngữ; trung học cơ  sở  lấy các kiểu văn bản trong tạo lập và các thể  loại   văn học tương  ứng để  làm trục tích hợp; còn cấp trung học phổ  thông lại dựa   vào thể loại và lịch sử văn học để tổ chức chương trình. Chương trình Ngữ  văn 2018 xuất phát từ  các yêu cầu cần có cho học sinh  về năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học để lựa chọn các nội dung văn học và   ngữ  học cần dạy. Như  thế  các kiến thức chỉ  có ý nghĩa lọt vào chương trình  mới khi chúng phục vụ đắc lực, trực tiếp cho yêu cầu phát triển năng lực ngôn  ngữ và năng lực văn học. Hơn nữa, chương trình còn được xây dựng dựa trên 1  trục tích hợp duy nhất là các kĩ năng giao tiếp đọc, viết, nói và nghe. Đây là trục  chính xuyên suốt cả  ba cấp học nhằm đáp  ứng yêu cầu của chương trình theo  định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất   cả các cấp, lớp. 13
  14. Chúng ta có thể  thấy rõ những thay đổi cơ  bản về  nội dung dạy học của   chương trình 2018 so với chương trình 2006 qua bảng sau: Chương trình 2006 Chương trình 2018 Coi trọng việc quy định các nội dung  Không quy định chi tiết về nội dung dạy  cụ   thể   cho   từng   lớp:   tác   giả,   tác  học, các văn bản cụ  thể  mà chỉ  quy định  phẩm, trích đoạn, các đơn vị  tiếng  những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói,  Việt và nội dung dạy tập làm văn…  nghe   cho   mỗi   lớp,   quy   định   khối   kiến  tác giả  sách giáo khoa và giáo viên  thức cơ  bản, cốt lõi về  tiếng Việt, văn  phải tuân thủ. học và một số  văn bản, tác phẩm có vị  trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân  tộc.   Những   văn   bản,   tác   phẩm   được  chương trình nêu lên trong phần cuối văn  bản chỉ là sự gợi ý về ngữ liệu, minh họa   về thể loại, kiểu loại văn bản. Cho phép  các tác giả sách giáo khoa chủ động, sáng  tạo   trong   việc   triển   khai   các   nội   dung  dạy học cụ  thể  theo yêu cầu phát triển  chương trình. Chỉ  tập trung vào yêu cầu dạy nội  Chỉ   gợi   ý   về   đọc   những   văn   bản,   tác  dung, chỉ  nêu dạy đọc hiểu những  phẩm nhưng lại quy định rất rõ yêu cầu  văn bản, tác phẩm nào mà không nêu  về   kĩ   năng   cần   đạt.   Chẳng   hạn   với   kĩ  yêu cầu về kĩ năng đọc năng đọc hiểu, học sinh phải  đạt được  các yêu cầu gì? (Đọc hiểu nội dung; Đọc  hiểu hình thức; Liên hệ  so sánh, kết nối;  Đọc   mở   rộng,   học   thuộc   lòng   một   số  đoạn, văn bản chọn lọc). Tập trung trang bị kiến thức và mục  Kiến thức là phương tiện  để  đạt  được  tiêu  cũng  hướng  tới  việc   giúp  học  mục tiêu năng lực nhưng nó vẫn có vai  sinh có nhiều kiến thức trò quan trọng. Xuất phát từ  các yêu cầu  cần đạt về năng lực mà xác định các kiến  thức đầu vào. Các kiến thức văn học và  tiếng Việt đều nhằm phục vụ  cho việc  đọc hiểu, viết và nghe nói tốt hơn; biết  cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các giá trị  văn học tốt hơn, tinh tế hơn.   Ngữ   liệu   văn   bản   chính   là   yếu   tố  Chỉ  nêu định hướng về  các kiểu văn bản  nòng cốt của chương trình. Nói đến  và được dạy  ở  từng lớp. Ngữ  liệu trong   chương trình Ngữ  văn, người ta chỉ  chương trình mới không chỉ  có văn bản  14
  15. cần   biết   và   chủ   yếu   muốn  biết   ở  văn học, văn bản nghị luận mà còn có văn  cấp/lớp học đó học những tác phẩm  bản thông tin. Chương trình quy định một  nào,   trước   hết   để   biên   soạn   sách  số   ngữ   liệu   bắt   buộc   và   bắt   buộc   lựa  giáo khoa mỗi cấp/lớp.  chọn.Việc   quy   định   3   cấp   độ   của   ngữ  liệu vừa đảm bào những hiểu biết cốt lõi  của   tri   thức   phổ   thông,   vừa   dành   một  khoảng trống cho sự  chủ  động sáng tạo  của   các   tác   giả   sách   giáo   khoa   và   giáo  viên trong việc lựa chọn biên soạn sách  giáo khoa, tài liệu dạy học phù hợp và có  hiệu quả; mặt khác cũng làm phong phú  thêm nội dung giáo dục, đáp ứng nhu cầu  cập nhật và sở thích của học sinh với các  lứa tuổi, vùng miền khác nhau. 2.2. Vị trí của khối kiến thức Kí Việt Nam hiện đại trong chương trình   Ngữ văn phổ thông Như  chúng tôi đã trình bày  ở  trên, có thể  nói trong chương trình Ngữ  văn  Phổ  thông nói chung và chương trình Ngữ  văn lớp 12 nói riêng thì khối kiến  thức Kí Việt Nam hiện đại chiếm một vị  trí rất quan trọng. Điều này có thể  thấy rõ qua bảng thống kê các tác phẩm, thể loại được học trong chương trình   lớp 12 theo công văn 3280 của Bộ giáo dục và đào tạo như sau: Thể loại Đơn vị bài học Thơ 4 Truyện ngắn 5 Kí 2 Văn chính luận 1 Kịch 1 Nhìn vào bảng thống kê, ta có thể  thấy rõ đơn vị  bài học của kí chỉ  đứng  sau hai thể loại quan trọng, phổ biến là truyện ngắn và thơ. Hơn nữa, đây còn là  hai tác phẩm tiêu biểu của hai tác giả nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam là   Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài ra, hai tác phẩm  Người lái đò Sông Đà  và  Ai đã đặt tên cho dòng   sông? là những tác phẩm quan trọng nằm trong phạm vi ra đề  của kì thi Trung   học phổ thông Quốc gia nay là kì thi Tốt Nghiệp nên cũng là một mối quan tâm   của nhiều giáo viên và học sinh hiện nay. Gần đây nhất, tác phẩm  Ai đã đặt tên   cho dòng sông? của Hoàng Phủ  Ngọc Tường đã có mặt trong đề  thi Trung học  phổ thông Quốc gia năm 2019 như sau: 15
  16. “Trong những dòng sông đẹp  ở  các nước mà tôi thường nghe nói đến…   chân núi Kim Phụng”. (Ai đã đặt tên cho dòng sông ? – Hoàng Phủ Ngọc Tường) Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ  đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ  Ngọc Tường. Từ  những lí do trên, ta có thể  khẳng định rằng những tác phẩm Kí Việt  Nam hiện đại đóng một vai trò quan trọng trong chương trình Ngữ  văn 12 nói   riêng và chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông nói chung. 2.3. Hiện trạng kiểm tra đánh giá trong dạy học Ngữ văn ở các trường   THPT Việc dạy học văn nói chung và kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ  văn nói  riêng  ở  các trường trung học phổ  thông hiện nay đang có một số  vấn đề  cần   phải quan tâm. Để  thấy rõ được thực trạng kiểm tra đánh giá hiện nay, tôi đã  tiến hành khảo sát 60 cán bộ, giáo viên các trường trung học phổ thông trên địa   bàn huyện Nghi Lộc. Trong đó có 6 cán bộ quản lí (1 cán bộ là giáo viên văn) và  54 giáo viên Ngữ văn. Phiếu khảo sát tập trung vào hai vấn đề cơ bản sau: ­ Nhận thức của cán bộ, giáo viên về  việc kiểm tra đánh giá theo định  hướng phát triển năng lực học sinh. ­ Thực trạng sử dụng các bộ công cụ kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn   ở trường trung học phổ thông. Kết quả khảo sát được phân tích, xử lí như sau: 2.3.1. Nhận thức của cán bộ, giáo viên về  việc kiểm tra đánh giá kết quả   học tập học sinh theo hướng phát triển năng lực trong môn Ngữ  văn cấp trung   học phổ thông 2.3.1.1. Nhận thức của cán bộ, giáo viên về việc kiểm tra đánh giá kết quả  học tập học sinh theo hướng phát triển năng lực Nhờ  có công cuộc đổi mới khẩn trương của Bộ  Giáo dục, các công văn  hướng dẫn thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá một cách kịp thời của Sở Giáo  dục nên hầu hết các cán bộ, giáo viên đã có những hiểu biết về việc kiểm tra,   đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh, đã thấy được sự  khác nhau   giữa đánh giá nội dung với đánh giá năng lực. Họ  đã nhận ra được vai trò của   kiểm tra, đánh giá trong việc nâng cao chất lượng dạy học và phát triển năng   lực học sinh, đánh giá vì chất lượng người học. Tuy nhiên, trong thực tế giảng  dạy việc đánh giá năng lực học sinh dù     đã được thực hiện nhưng vẫn chưa   thật sự hiệu quả. Việc kiểm tra đánh giá kết quả  học tập của học sinh  ở trường phổ thông  hiện nay đang được thực hiện bằng hai hình thức: đánh giá thường xuyên và  16
  17. đánh giá định kì. Theo quan niệm lâu nay, thì từ cán bộ quản lí đến giáo viên và  học sinh đều có quan niệm coi trọng việc đánh giá định kì, đánh giá tổng kết   hơn là đánh giá thường xuyên. Điều này được thể hiện rõ ở  sự  quy định hệ  số  của các con điểm, điểm thường xuyên là hệ  số 1, điểm định kì hệ  số  2. Vì thế  nhiều giáo viên và học sinh đang xem nhẹ việc kiểm tra thường xuyên, điều này   được thể hiện ở hình thức kiểm tra, cách biên soạn đề kiểm tra… hầu như đang  qua loa, đối phó và chưa thật sự  chú trọng đến chất lượng. Trong khi đó, theo   tinh thần đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh lại  rất chú trọng đến kiểm tra thường xuyên. Thông tư  26/2020 TT – BGDĐT ban  hành có hiệu lực từ tháng 11/2020 đã cho thấy vị trí, vai trò của kiểm tra thường  xuyên. Số  lần kiểm tra thường xuyên không hạn định, hình thức kiểm tra đa  dạng giúp phát triển năng lực học sinh và thực sự chú trọng đến sự tiến bộ của   người học, giúp giáo viên có thể thu nhận thông tin và có sự điều chỉnh kịp thời   cách dạy của mình, cách học của học sinh… Đại bộ  phận cán bộ  quản lí và giáo viên đã có cách tiếp cận khoa học về  đánh giá năng lực học sinh. Việc xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá phù hợp   với phân phối chương trình, những đơn vị kiến thức được lựa chọn đều có tính  ứng dụng cao. Tuy nhiên, khả năng vận dụng tri thức về đánh giá năng lực vào   thực tế  chưa cao. Điều này có nhiều nguyên nhân cả  khách quan và chủ  quan.  Về khách quan, do chương trình đang thực hiện trên sách giáo khoa cũ, rộng về  kiến thức nên chưa có điều kiện phát triển năng lực học sinh. Còn về chủ quan   thì việc kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh đang diễn ra   lẻ tẻ, cá biệt ở một số cá nhân, chưa có sự phổ biến. Một phần là do chưa có sự  hướng dẫn cụ  thể, còn có độ  vênh giữa các khâu của quá trình dạy học, đặc   biệt là các cuộc thi vẫn chưa được đổi mới và còn nặng về kiểm tra kiến thức. 2.3.1.2. Nhận thức của cán bộ, giáo viên về việc kiểm tra đánh giá kết quả  học tập học sinh theo hướng phát triển năng lực trong môn Ngữ  văn cấp trung  học phổ thông Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên các nội dung: Xác định đúng mục đích   đánh giá; xác định đúng quy trình đánh giá; hiểu về các bộ công cụ sử dụng đánh  giá; quy trình thiết kế bộ công cụ; cách thức thiết kế bộ công cụ. Kết quả thống kê thu được từ phiếu khảo sát như sau: Tiêu chí Số lượng Tỉ lệ % Xác định đúng mục đích đánh giá 59 98% Xác định đúng quy trình đánh giá 57 95% Hiểu về các bộ công cụ sử dụng đánh giá 25 41,7% Quy trình thiết kế bộ công cụ 40 66,7% 17
  18. Cách thức thiết kế bộ công cụ 35 58% Từ kết quả thu được qua phiếu khảo sát, ta có thể  nhận thấy hầu hết cán  bộ, giáo viên đã xác định đúng mục đích đánh giá (59/60 người chiếm 98% ) ,   quy trình đánh giá (57/60 chiếm 95%). Tuy nhiên mức độ  hiểu về  các bộ  công   cụ đánh giá (41,7%) , quy trình thiết kế bộ công cụ đánh giá (66,7%); cách thức  thiết kế bộ công cụ đánh giá của giáo viên (58%) chưa cao, chưa đồng đều với   nhau. Các bộ công cụ dùng để đánh giá mà giáo viên biết còn ít, chủ yếu vẫn là   câu  hỏi,  bài  tập,  đề  kiểm   tra…  Các  bộ  công  cụ  như   bảng  kiểm, thang   đo,   rubrics… nhiều giáo viên chưa nghe đến, chưa biết cách sử dụng. 2.3.2. Thực trạng sử dụng các bộ công cụ kiểm tra, đánh giá của giáo viên   hiện nay Qua số liệu thu được từ  phiếu khảo sát, chúng tôi thấy thực tế việc kiểm  tra đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay, giáo viên đang sử dụng   rất ít các bộ công cụ. Cụ thể: Công cụ Số lượng Tỉ lệ % Phiếu hỏi 60 100% Bài tập 60 100% Đề kiểm tra 60 100% Bảng kiểm 10 16,7% Thang đo 15 25% Hồ sư học tập 10 16,7% Phiếu đánh giá theo tiêu chí (Rubrics) 5 8,3% Hầu như  đại đa số  giáo viên vẫn đang sử  dụng những bộ  công cụ  quen  thuộc như phiếu hỏi, bài tập, đề kiểm tra chiếm 100%. Tuy nhiên trong việc sử  dụng những công cụ  này vẫn còn có nhiều vấn đề  phải quan tâm. Thứ  nhất,  việc kiểm tra đánh giá đang thiên về kiểm tra hai kĩ năng chủ yếu là đọc – viết,   chưa kiểm tra kĩ năng nói – nghe. Nội dung các câu hỏi, đề  kiểm tra vẫn đang  thiên về việc tái hiện kiến thức, yêu cầu học sinh ghi nhớ, tái hiện cao, các năng  lực ít được hình thành. Thậm chí nhiều người còn quan niệm, để phát triển chất  văn cho học sinh thì phải sử dụng các câu hỏi cảm thụ mang tính truyền thống.  Hình thức kiểm tra này ít phát huy được sự sáng tạo của học sinh. Tóm lại, việc kiểm tra đánh giá trong dạy học Ngữ văn hiện nay đang tồn  tại một số  vấn đề  cần quan tâm như: số  lượng các bộ  công cụ  được sử  dụng  đang còn ít; chủ  yếu đang dừng lại  ở  việc đánh giá năng lực đọc­ viết, chưa  đánh giá năng lực nói – nghe. Nhiều giáo viên đang quan niệm kiểm tra đánh giá  18
  19. là để  lấy kết quả  đánh giá cuối kì, cuối năm chứ  chưa thực sự  đánh giá vì sự  phát triển của người học. 19
  20. Chương 2: THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BỘ CÔNG CỤ KIỂM TRA  ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN  PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH QUA DẠY HỌC CHỦ ĐỀ KÍ VIỆT  NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12 2.1. Thiết kế bộ công cụ kiểm tra đánh giá 2.1.1. Nguyên tắc thiết kế 2.1.1.1. Đảm bảo tính hệ thống, khoa học, chính xác Trong thực tế kiểm tra đánh giá có nhiều bộ công cụ được sử dụng như đã  nói  ở  trên, mỗi bộ  công cụ  đều hướng đến một mục tiêu riêng. Tuy nhiên, các   bộ công cụ này đều phải hướng đến một mục tiêu chung thống nhất đó là phát  triển năng lực cho học sinh qua bài học đó. Bên cạnh tính hệ thống, việc xây dựng công cụ kiểm tra đánh giá còn phải   đảm bảo tính khoa học, chính xác cả  về  kiến thức, kĩ năng và quy trình xây   dựng bộ công cụ đó. 2.1.1.2. Thể hiện rõ các yêu cầu cần đạt của bài học Chức năng quan trọng nhất của các bộ  công cụ  là đánh giá chính xác kết   quả học tập mà học sinh đạt được hay nói cách khác là để  đo xem qua bài học,  học sinh nắm được bao nhiêu phần trăm yêu cầu cần đạt của bài. Vì thế các bộ  công cụ  cần thể  hiện được các mức độ  của yêu cầu cần đạt để  đo chính xác  những cái cần đo. 2.1.1.3. Đáp  ứng được yêu cầu của thực tiễn Việt Nam và hội nhập thế   giới Đổi mới kiểm tra đánh giá là một khâu của đổi mới dạy học. Việc đổi mới  kiểm tra đánh giá được thể hiện qua một số đặc điểm sau: ­ Bên cạnh đánh giá kiến thức, kĩ năng học sinh cần tăng cường việc vận  dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn. ­ Cần đa dạng các hình thức đánh giá: giáo viên đánh giá học sinh, học sinh  tự đánh giá mình, đánh giá lẫn nhau và thậm chí học sinh còn đánh giá giáo viên,   trực tiếp tham gia xây dựng các tiêu chí của công cụ  đánh giá. Học sinh có thể  trao đổi bài tự  chấm cho nhau hoặc tự chấm bài của mình theo các tiêu chí mà   giáo viên cung cấp. 2.1.2. Quy trình thiết kế 2.1.2.1. Xác định mục tiêu kiểm tra đánh giá Kiểm tra, đánh giá nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về  mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và những tiến bộ của   học sinh trong suốt quá trình học tập chủ đề  thông qua việc hình thành và phát  triển các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe. Từ đó góp phần điều chỉnh các hoạt động  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2