intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4- 5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

40
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là giúp trẻ hứng thú và yêu thích tham gia các hoạt động khám phá khoa học. Trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về những sự vật, hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ. Trẻ đã biết tự bàn bạc thảo luận, đưa ra ý kiến với các bạn trong lớp. Trẻ đạt được kết quả chơi, hoàn thành được nhiệm vụ chơi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4- 5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu       Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc  dân, có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình  thành nhân cách con người. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là  tương lai của mỗi dân tộc, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách  nhiệm của nhà  nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả  mọi việc đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và... Chính   vì vậy trẻ em như tờ giấy trắng mà cha mẹ các con rất kỳ vọng vào sự tô vẽ  của thầy cô. Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của trẻ, có thể  nói việc   hình thành, rèn luyện  ở  trẻ  những nhân cách ban đầu để  trẻ  trở  thành công   dân tý hon hoàn thiện như: Cơ thể khỏe mạnh, thông minh nhanh nhẹn, ngoan   ngoãn lễ  phép, Có những kỹ  năng cần thiết trong cuộc sống.... đó chính là  trách nhiệm của giáo viên mầm non. Đối với trẻ nhỏ, mọi sự vật hiện tượng tự nhiên luôn là điều hấp dẫn   nhưng cũng thật lạ lẫm khó hiểu mà trẻ  tò mò muốn biết, muốn được khám  phá trong suốt cuộc đời và C.Mác cho rằng “Tự nhiên là nguồn gốc của các tri   thức cụ  thể  đầu tiên của con người và nó thường để  lại cho chúng ta cảm  giác sung sướng được lưu giữ  suốt đời”. Chính vì vậy “khám phá khoa học”   được coi là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý  nghĩa vô cùng quan trong và cần thiết  đối với trẻ, hoạt động này góp phần   tích cực trong việc giúp trẻ  phát triển toàn diện các lĩnh vực như  nhận thức,   ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ và thể lực....Khám phá khoa học giúp trẻ  mở  rộng vốn hiểu biết về  sự  vật hiện tượng tự  nhiên, đây là cơ  sở  để  trẻ  giải quyết những tình huống trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tham gia  vào các hoạt động đa dạng và phong phú khác  ở  trường mầm non như  hoạt   động tạo hình, hoạt động làm quen với toán..., đồng thời còn là những kiến  thức khoa học sau này  ở  trường phổ  thông. Mặt khác “khám phá khoa học”   còn giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, các thao  tác tư duy, cũng như góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất của trí  tuệ  góp phần không nhỏ  vào việc hình thành và phát triển các kỹ  năng nhận  thức.           Đặc biệt đối với trẻ 4­5 tuổi “Khám phá khoa học” không chỉ  giúp trẻ  phát triển các giác quan, kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức, mà còn   thoả  mãn tính ham hiểu biết, tích cực tìm tòi, khám phá trải nghiệm nhằm  phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu bên trong các sự  vật hiện tượng,  từ  đó giúp trẻ  hình thành  những khái niệm sơ  đẳng ban đầu.  Do đó, nhiệm  vụ  của chúng ta là phải hình thành củng cố  mở  rộng vốn tri thức của trẻ,   1
  2. đồng thời phải rèn luyện và phát triển các năng lực và hành vi  ứng xử  đúng  đắn với môi trường tự nhiên. Góp phần vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Là giáo viên mầm non,  nhận thức được tầm quan trọng của  lĩnh vực  khám phá khoa học đối với sự  phát triển của trẻ, tôi luôn cố  gắng tìm hiểu,  ứng dụng những phương pháp, giải pháp mới nhằm giúp trẻ  học tốt hơn, và  không phụ lòng  mong đợi của tôi, những đứa con nhỏ lớp  4 tuổi B của tôi đã  từng ngày lớn lên và tỏ  ra đặc biệt thích thú khi được tham gia vào các hoạt   động khám phá khoa học. Với mong muốn được chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm   với bạn bè đồng nghiệp và các bậc phụ  huynh, tôi đã chọn đề  tài: “Một số   biện  pháp giúp trẻ  lớp  4­ 5 tuổi  D trường mầm non Đồng Tĩnh  khám phá  khoa học” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tên sáng kiến:  “Một số  biện pháp giúp trẻ  lớp 4 – 5 tuổi D trường mầm non  Đồng Tĩnh  khám phá khoa học” 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ­ Họ và tên: Trần Thị Hải Oanh. ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Đồng Tĩnh – huyện Tam   Dương – tỉnh Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0964 584 386 ­ Email: tranthihaioanh.c0dongtinh@vinhphuc.edu.vn. 4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ­ Lĩnh vực khám phá khoa học.   5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: ­ Tháng 8/2016 – tháng 15/02/2017. 6. Mô tả bản chất của sáng kiến: 6.1. Về nội dung của sáng kiến: 6.1.1. Cơ sở lí luận:      * Những chủ trương về giáo dục: Theo quyết định số 55 của bộ giáo dục và đào tạo qui định mục tiêu, kế  hoạch đào tạo của Nhà trẻ  ­ Mẫu giáo Hà Nội năm 1990 trang 6 ghi rõ mục   tiêu giáo dục mầm non là: “Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân   cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam:        + Khỏe mạnh – nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa cân đối.  + Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ những người   gần gũi như: bố mẹ, bạn bè, cô giáo… thật thà, lễ phép, hồn nhiên.  2
  3.       + Yêu thích cái đẹp, biết gìn giữ cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp   ở xung quanh.        + Thông minh, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá, có một số kỹ năng   sơ  đẳng như: quan sát, phân tích, tổng hợp…. Cần thiết để  vào trường phổ   thông, thích đi học”.  * Sự  cần thiết của việc nâng cao chất lượng giáo dục khám phá  khoa học:        Nhằm nâng cao hiệu quả  khám phá khoa học cho trẻ, giúp trẻ  say mê  khám phá, phát triển tính sáng tạo và mở rộng kiến thức cho trẻ, phát triển tư  duy, ngôn ngữ, củng cố các kĩ năng nhận thức, rèn khả năng tri giác, phân tích,  so sánh, tổng hợp, hình thành những xúc cảm, tình cảm tích cực cũng như  cung cấp kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi cho trẻ.         Giúp giáo viên có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động khám  phá khoa học cho trẻ phù hợp với chương trình giáo dục mầm non. Giúp cho nhà trường đào tạo cho xã  hội nguồn nhân lực phát triển toàn   diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động, góp phần vào sự nghiệp trồng người của   đất nước. 6.1.2. Thực trạng: Trường Mầm non Đồng Tĩnh nằm trên địa bàn của xã Đồng Tĩnh –   huyện Tam Dương thuộc khu vực miền núi. Cơ  sở  vật chất cũng như  chất  lượng của đội ngũ CBGV còn rất nhiều khó khăn, chưa đáp  ứng được nhu   cầu của người học.  Năm học 2016 ­ 2017, trường có tổng số  CBGV­NV trong trường là:   26 . Tổng số nhóm, lớp: 15 lớp Trong đó tổng số trẻ là: 442 trẻ. Số phòng học: 11 phòng (trong đó có 6 phòng học tạm, học nhờ). * Thuận lợi:  ­ Đội ngũ giáo viên trong trường luôn đoàn kết, thống nhất. ­ Cho giáo viên đi học nâng cao trình độ  chuyên môn. Vào các dịp hè  chúng tôi được đi học bồi dưỡng bồi dưỡng chuyên môn của phòng giáo dục  và đào tạo. Dự  các buổi chuyên đề  về  hoạt động tạo hình của phòng, của  trường, dự  giờ  đồng nghiệp tạo điều kiện cho tôi được học tập, củng cố  kiến thức nghiệp vụ. ­ Giáo viên có kế hoạch chương trình ngay từ đầu năm. ­ Soạn bài chi tiết, sắp xếp hợp lý các nội dung cần truyền đạt, phân   bố  thời gian cho từng phần phù hợp, nghiên cứu bài và phương pháp bộ môn  có chuẩn bị đủ và sử dụng cho cô và trẻ trong hoạt động. 3
  4. ­ Đa số trẻ được ăn ngủ bán trú tại lớp (20/20 cháu). Tỉ  lệ chuyên cần   đạt 98%. ­ Bản thân tôi là giáo viên mới vào nghề  chưa lâu vì vậy mà tôi đã dày  công suy nghĩ về  các phương thức và cách thức làm sao dạy trẻ  tốt nhất và  mang lại sự vui vẻ hòa đồng, tự  tin cho trẻ  khi  ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ.  Là  một giáo viên nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác, tâm  huyết với  nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc. Luôn luôn có ý thức  phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tạp chí, thông  tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào  việc chăm sóc giáo dục trẻ  hằng ngày nhất là việc giáo dục phát triển nhận  thức cho trẻ. Có ý thức tự nâng cao trình độ chuyên môn, tham gia đầy đủ các  lớp tập huấn chuyên môn. Về  phía trẻ: với tinh thần ham học hỏi,  ở lớp tham gia các hoạt động  tích cực, đặc biệt là các hạt động khám phá khoa học, các trò chơi mang tính  khám phá, trải nghiệm, các thí nghiệm về  những hiện tượng gần gũi xung  quanh trẻ... Hầu hết các trẻ đều thể hiện sự ham thích một cách rõ rệt. Đó là   điều kiện thuận lợi cho các tiết dạy khám phá khoa học ở trường mầm non. ­ Năm 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ  trách lớp mẫu giáo  4 – 5 tuổi D: ­ Tổng số học sinh trong lớp có 25 cháu: Nam: 16        Nữ : 9 ­ 100 % số trẻ ăn ở bán trú tại trường. ­ Phụ huynh luôn quan tâm đến con và các hoạt động ở lớp. * Khó khăn: ­ Lớp phải học nhờ  nhà dân nên gây khó khăn trong việc tổ  chức các   hoạt động khám phá. Thiếu cơ  sở  vật chất, thiếu kinh nghiệm, trẻ  còn nhỏ  nhận thức còn  hạn chế.          Các tài liệu tham khảo về khám phá khoa học còn ít.          Vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh còn nghèo nàn.           Kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp ở trẻ còn chưa đồng đều.           Giáo viên còn nhiều hạn chế  về  phương pháp tổ  chức các hoạt động  khám phá khoa học đa dạng, phong phú cho trẻ.   Không gian trường hẹp nên khó khăn trong việc tổ chức hoạt động.           Xuất phát từ  những thuận lợi và khó khăn trên, tôi luôn trăn trở  mình  phải làm thế  nào để giúp trẻ  học thật tốt bộ  môn khám phá khoa học, tôi đã  không ngừng suy nghĩ và sáng tạo, để  tìm ra những cách thức, phương pháp   giảng dạy và tạo ra môi trường học tập tốt nhất cho trẻ. Bằng tất cả sự nỗ  lực, cố gắng đó, tôi cảm thấy một phần nào ý nguyện của mình đã thực hiện  4
  5. được,   mai này biết đâu đó những “mầm non”  ấy sẽ  tiếp tục là những nhà   khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn nữa.       Để có biện pháp giáo dục tốt nhất trong quá trình giúp trẻ khám phá  khoa học cho trẻ nên tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ ở lớp tôi ở đầu năm  học qua những tiêu chí sau:  Bảng A: Đánh giá đầu năm học 2016 – 2017 Tổng số trẻ  khảo sát: 25 cháu, đạt 100% Nội dung Tốt Khá  TB Yếu Số  Tỉ  Số  Tỉ  Số  Tỉ  Số  Tỉ  trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ Trẻ tích cực tham gia khám phá       12 48% 6 24% 4 16% 3 12% Trẻ có khả năng quan sát ghi nhớ 8 32% 8 32% 6 24% 3 12% Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so sánh,  7 28% 8 32% 5 20% 5 20% tổng hợp.        Kết quả  thể  hiện  ở  bảng trên cho thấy kết quả  hoạt động khám phá  khoa học ở trẻ chưa cao. Với khả năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản  thân, tôi tin chắc rằng mình sẽ  giúp trẻ  có được sự  yêu thích, tích cực tham  gia khám phá, có khả năng quan sát, ghi nhớ và cao hơn nữa là trẻ  có kĩ năng  phân tích, so sánh, tổng hợp. 6.1.3. Một số biện pháp khám phá khoa học cho trẻ lớp 4 ­5 tuổi D.          Biện pháp 1: Lập kế  hoạch tổ  chức cho trẻ  khám phá khoa học.  Lựa chọn nội dung khám phá  ­  thí nghiệm phù hợp với khả  năng của  trẻ.         Dựa trên kế  hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ  vào  nội dung trong chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian, thời điểm thực  hiện bài tập ở vào giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức  độ  phát triển, khả  năng thực tế  của trẻ, tôi đã xây dựng kế  hoạch nội dung   khám phá cho trẻ, xác định độ  khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự  để  đưa vào hướng dẫn trẻ  cho phù hợp đi từ  dễ  đến khó. Nội dung trong  chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ đề chủ   điểm, phù hợp với  các hoạt động khác và các sự  kiện. Khi lập được kế  hoạch tổ  chức tôi thấy  rất yên tâm và thực hiện rất hiệu quả.  Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả  tốt  thì việc lựa chọn nội  dung khám phá cũng như những thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ  là   rất cần thiết và quan trọng. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng   5
  6. của trẻ trong lớp để làm căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động khám phá khoa  học cho hợp lý và phù hợp với sự nhận thức của trẻ. Đầu năm tôi chưa chú ý   đến việc lựa chọn nội dung – thí nghiệm cho trẻ khám phá. Tôi thường chọn  những nội dung khám phá quá cao so với  khả năng nhận thức của trẻ  như:  Hoạt động khám phá về quy trình làm bánh trung thu hay thí nghiệm pha màu   nước.....để giao bài tập cho trẻ hoạt dẫn đến đa số trẻ trong lớp tôi không có  kỹ năng khám phá, làm cho tiết học đạt kết quả không cao.  Đứng trước tình trạng trên tôi đã đặt mục tiêu cho mình khi lập kế  hoạch cho trẻ cần có tính hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời mở  ra một hướng khám phá mới cho các hoạt động tiếp theo. Ví dụ: Đầu năm tôi cho trẻ làm thí nghiệm “Bong bóng bay” tôi cho trẻ  thổi những quả  bóng rồi cho trẻ  cùng  chơi: Một bạn nói qua quả  bóng còn   một bạn bạn áp tai vào quả bóng và nghe xem âm thanh bạn nói có gì thay đổi   (Hình1).  Hay để biết được sự thay đổi của âm thanh, tôi cho trẻ bịt tai lại hỏi  trẻ có nghe thấy cô nói không và giọng nói của cô có gì thay đổi không? Hình  thức cho trẻ  tự  nói nên cảm nhận của riêng mình giúp trẻ  mạnh dạn tự  tin   hơn.                      Hình 1: Trẻ làm thí nghiệm “Bong bóng bay” Khi trẻ  đã mạnh dạn hơn rồi tôi cho trẻ  tham gia vào các thí nghiệm  khó như ở chủ đề bản thân tôi cho trẻ khám phá về các giác quan của trẻ (vị  giác).             Ví dụ: Khám phá về “vị của nước” tôi chuẩn bị  cho mỗi trẻ 3   cốc nước, các đĩa đựng đường, muối, một số viên C sủi. Đầu tiên tôi cho trẻ  quan sát và uống ly nước sôi cho trẻ nói lên cảm nhận của mình, có cháu nói   6
  7. nước không có vị  gì, có cháu nói nước không có mùi, cháu Cẩm Tú thì bảo  nước không có màu gì. Tôi kết luận: Nước không màu, không mùi không vị.   Và tôi hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cho một thìa muối (đường, viên C  sủi) vào cốc nước, có trẻ  nói là nước sẽ  bị  mặn, có trẻ  lại cho rằng nước   ngọt, nước có vị chua,.... rồi yêu cầu trẻ cho 1 thìa muối vào ly nước và nếm   thử. Lúc này tôi thấy có trẻ thì nhăn mặt lại  Tôi hỏi tại sao? rất nhiều ý kiến  khác nhau đưa ra: Con thấy hơi mặn, con thấy rất mặn, con thấy chua vì con  cho viên C sủi vào....... Cuối cùng tôi đưa ra một kết luận: Nước có thể  thay   đổi  về     vị  tuỳ  theo  chúng  ta   cho  thêm  đường  hoặc  muối  hay  nước  cam,   chanh...   Bên cạnh đó tôi luôn quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong   lớp thông qua quá trình trẻ  thực hiện các hoạt động. Từ  đó tôi đánh dấu  những trẻ cần được đưa những câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi  khó hơn hoặc thực hiện những bài tập phức tạp hơn  để  tránh tình trạng  những trẻ  nhận thức hạn chế  cũng thực hiện những bài tập khó giống như  những trẻ  có khả  năng nhận thức tốt, dẫn đến những trẻ  đó thường bị  thụ  động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động khám phá cùng bạn.  Như trong chủ đề “Bản thân” cháu Quốc Bảo sự nhận thức còn hạn chế,  tôi  đưa câu hỏi dễ như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì?Mũi dùng   để làm gì?...) để trẻ trả lời được, từ đó tạo cho trẻ cảm giác thành công trong  công việc giúp trẻ bạo dạn và tự tin vào bản thân mình hơn. Còn cháu Huyền   Diệu sự nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát triển tốt tôi đặt ra những bài  tập hay câu hỏi khó như: Tôi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bịt mũi lại?  hay tại sao con lại nghĩ số  người và số  khăn mặt lại bằng nhau?... để  tránh  gây cho trẻ sự nhàm chán trong quá trình khám phá.           Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm  cũng như việc   đặt câu hỏi phù hợp với khả  năng nhận thức của trẻ   mà tôi thấy các hoạt   động khám phá tôi đưa ra cho trẻ đều được trẻ hưởng ứng nhiệt tình. Trẻ lớp   tôi đã mạnh dạn, tự  tin hơn trong việc thảo luận cũng như    tìm ra kết quả  nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm.          Biện  pháp  2.  Dạy trẻ  khám  phá  khoa học trong giờ  hoạt  động  chung:   Đầu năm ở các tiết học khám phá tôi tôi vẫn thường ôm đồm nhiều nội   dung trong một hoạt động khám phá và tôi vẫn nói nhiều. Điều này làm cho   các hoạt động khám phá trở  nên nặng nề, quá tải, trẻ  không được tham gia  các hoạt động khám phá phù hợp với khả năng. Vì vậy không có cơ  hội phát  triển ở trẻ khả năng nhận thức, khám phá. Hơn nữa tôi chỉ sử dụng tranh ảnh  rồi đặt các câu hỏi và trả lời của trẻ, cũng có khi tôi lại là người nói còn trẻ  chỉ  nghe một cách thụ  động, dẫn đến giờ  học trở  nên nhàm chán, không đạt   kết quả  cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn sử  dụng vật thật kích thích các   7
  8. giác quan của trẻ hoạt động, trẻ được trực tiếp quan sát, phân tích so sánh tự  mình rút ra một kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ  thích thú và hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá.   Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số  con vật sống dưới nước (con cá, con tôm, con cua). Tôi cho trẻ   cho trẻ  trực  tiếp quan sát các đặc điểm của con vật theo từng nhóm (Nhóm 1: Quan sát con  cua, Nhóm 2: Quan sát con cá,  Nhóm 3: Quan sát con tôm. (Hình 2)            Hình2:   Trẻ  đang khám phá các con vật sống dưới nước theo từng   nhóm         Sau đó tôi cho trẻ  tự  nhận xét về  các đặc điểm của chúng thông qua  các câu hỏi: Con đang quan sát con gì? Con thấy con cua có đặc điểm gì? Cháu  Ngọc Diệp trả lời: Con thưa cô con cua có 2 cái càng và nhiều chân? Tôi lại  hỏi: Bạn nào có ý kiến khác ? Và rất nhiều ý kiến khác nhau mà trẻ  đưa ra   như: Con cua có mai?  hay cháu Minh Huy nói: Con cua dùng chân để  bò, cô   trẻ hỏi: vì sao con cua lại bò ngang? Câu hỏi ấy khiến nhiều trẻ tò mò muốn  biết, lúc này tôi hỏi lại câu hỏi đó cho cả  lớp cùng thảo luận. Rất nhiều ý  kiến khác nhau được đưa ra: Vì con cua có nhiều chân, vì con cua có 2 càng, vì  8
  9. chân con cua  ở  2 bên...Đây là lúc tôi giúp trẻ  giải thích để  đi đến một kết  luận: Vì do cấu tạo của con cua, chân nó nằm ngang ở hai bên nên nó phải bò  đi theo hướng ngang sang hai bên.  Không chỉ  dùng lại  ở  việc cho trẻ  khám  phá về  đặc điểm của con vật mà tôi còn hỏi trẻ  về  môi trường sống của   chúng. Ví dụ: Con cá sống ở đâu? Tôi luôn đặt ra tình huống để  kích thích trẻ  tham gia tích cực vào hoạt động khám phá khoa học. Ví dụ: Tôi vớt một con  cá đặt lên khay và 1 con cá để trong chậu nước và hỏi trẻ xem có hiện tượng   gì xảy ra. Trẻ quan sát và thấy hiện tượng: Con cá ở dưới  nước thì bơi được  còn con cá ở trên khay thì nhảy và quẫy. Tôi  hỏi : Tại sao lại có hiện tượng   đó. Cháu Tường Vi trả  lời: Con thưa cô: Con cá có vây thì bơi được ở  dưới  nước còn khi ở trên cạn cá không bơi được nên nó nhảy và quẫy. Sau khi tình   huống đã được giải quyết tôi khái quát lại một cách ngắn gọn: Đúng rồi con   cá có vây và thở bằng mang nên khi có nước con cá thở được và chúng ta nhìn   thấy những bong bóng sủi lên, còn khi ở trên cạn con cá sẽ  khó thở  và sẽ  có  hiện tượng cá nhảy và quẫy, nếu để  lâu trên cạn con cá sẽ  bị  chết. Tôi thả  ngay cá vào chậu nước tránh để trẻ nhìn thấy cá bị chết.  Song với bài dạy trên nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc cho trẻ quan sát  thì mục tiêu của bài dạy mà tôi đưa ra cho trẻ  là không hiệu quả  như  mong   muốn . Bởi vì hoạt động khám phá đòi hỏi trẻ không chỉ biết quan sát, mô tả  lại đặc điểm của chúng  mà còn phải biết phân tích so sánh  và tôi cho trẻ so  sánh giữa các con vật  Ví dụ: Con cá và con cua. Đây chính là hình thức để  tôi kích thích trẻ  tham gia vào quá trình phân tích so sánh giữa 2 đối tượng với hệ thống câu hỏi   như: Con cá và con cua có điểm gì giống và khác nhau? Rất nhiều ý kiến khác   nhau đã được đưa ra: Con cua có mai và có chân, con cá có vây và có đuôi;  con   cua biết bò còn con cá biết bơi.....Cuối cùng tôi khẳng định lại cho trẻ  nghe   về  sự  giống và khác nhau của con cá và con cua nhằm khắc sâu những kiến  thức mà trẻ vừa khám phá.      Để  biết được trẻ  nắm được  kiến thức đến đâu trong quá trình khám   phá,  tôi khuyến khích trẻ mô tả, kể lại những điều trẻ phát hiện được dưới  dạng một câu chuyện hoặc bằng hình vẽ  và trong nhóm có thể  bổ  sung cho  nhau (Hình 3). Trong quá trình thể hiện lại là trẻ đã đang tổng hợp lại những   kiến thức mà trẻ vừa được quan sát, phân tích, so sánh. Trên cơ sở đó tôi phát  hiện được khả  năng quan sát, phân tích  của từng trẻ để củng cố  và bổ  sung   cho trẻ ở những giờ hoạt động khác.  9
  10.                        Hình 3  : Trẻ vẽ lại các con vật mình vừa quan sát        Với hình thức cho trẻ  được quan sát phân tích so sánh, giải quyết tình  huống và trải nghiệm  như  trên  tôi thấy trẻ  lớp tôi sôi nổi hứng thú đưa ra   những nhận xét đánh giá khác nhau, giúp cho giờ học đạt kết quả cao.            Như vậy trong một giờ học trẻ được tham gia vào các các dạng hoạt   động  khám phá khác nhau: từ quan sát trải nghiệm, thảo luận trao đổi, nhận   xét, so sánh, tổng hợp....Điều đó giúp cho việc tích lũy kinh nghiệm và phát  triển kỹ năng của trẻ được hiệu quả mà lại không tạo sự nhàm chán và căng   thẳng đối với trẻ.           Ngoài tiết học chính về  hoạt động khám phá thì các tiết học khác tôi  cũng có thể lồng ghép cho trẻ khám phá khoa học như  ở hoạt động làm quen  với văn học tôi cho trẻ  khám phá “Vòng tuần hoàn của nước” thông qua câu  chuyện “Giọt nước tí xíu”. Hay ở hoạt động tạo hình cho trẻ  pha màu nước,  trẻ luôn đặt  ra câu hỏi: Tại sao màu này pha với màu kia lại thành màu khác?   Lúc này trẻ được pha màu nước để tô vẽ bức tranh đồng thời trẻ đã phát hiện   ra: màu vàng  pha với màu xanh nước biển ra màu xanh lá cây; màu đỏ  với  màu vàng thì ra màu cam;......Với hình thức này trẻ  sẽ  tích lũy được nhiều  kinh nghiệm cũng như  vốn hiểu biết về  thế  giới xung quanh sẽ  góp phần  không nhỏ vào các hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả tốt hơn.            Được trực tiếp làm các thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả  là điều thích thú đối với trẻ. Nếu trước đây trên tiết học tôi chỉ dạy những bài   khám phá đơn giản, chỉ sử dung tranh ảnh, thì tiết học không đạt kết quả cao.   Vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa những thí nghiệm nhỏ vào trong tiết dạy.           Ví dụ: Thí nghiệm1: Vật chìm vật nổi 10
  11.           Tôi chia trẻ thành 2 nhóm và chuẩn bị cho mỗi nhóm  một chậu nước,   và các đồ  vật khác nhau: sỏi, cát, viên bi, lá cây, bóng nhựa, bông hoa,…Đầu   tiên tôi yêu cầu trẻ cầm, nắm, sờ các đồ vật tôi đó rồi tôi  thảo luận với trẻ  những vật nào nổi, vật nào chìm. Cháu Văn Hiếu bảo bông hoa chìm, nhưng  cháu Ánh Ngọc lại bảo bông hoa nổi. Sau đó tôi ghi lại các ý kiến của trẻ để  xem trẻ  nào nói đúng, trẻ  nào nói sai. Với tôi câu trả  lời của trẻ  đúng – sai  không quan trọng bằng việc biết được trẻ suy nghĩ và tìm ra  kết quả đó bằng   cách nào. Để biết được trẻ nào đúng trẻ nào sai, tôi yêu cầu trẻ hãy lấy một  số  đồ  vật thả  vào chậu nước (Hình 4) và quan sát xem vật nào nổi vật nào   chìm? Tôi hỏi trẻ các con quan sát xem vật nào nổi lên mặt nước, trẻ trả lời :   Xốp, lá cây, quả  bóng nhựa, miếng gỗ, viên sỏi, hòn bi… Vì sao các vật đó  lại nổi được? Rất nhiều ý kiến trả  lời khác nhau, có trẻ  trả  lời là do lá cây  nhẹ, lá cây không thấm nước, ….. Vậy các con hãy quan sát xem  những vật   nào chìm và vì sao?  Bạn Đức Minh nói : “Con thưa cô, Con thấy hòn sỏi bị  chìm vì hòn sỏi nặng” hay “Con thấy hòn bi cũng chìm vì hòn bi hình tròn và  nặng hơn cái lá cây”… Với hình thức này tôi thấy trẻ được trải nghiệm, được   thử  ­ sai và cuối cùng tự  mình tìm ra được một kết quả  nào đó trẻ  sẽ  cảm  thấy sung sướng.                   Hình 4: Trẻ đang làm thí nghiệm vật chìm vật nổi.          Hay với bài dạy về “không khí”, Tôi cho trẻ làm thí nghiệm dưới hình  thức tổ chức các trò chơi. 11
  12.      Trò chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả  lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng   mím lại và cho trẻ nói cảm nhận của mình  khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời:   thấy rất khó chịu, không thở  được. Vậy làm thế  nào để  thở  được?   Cháu  Minh Khôi trả lời: Con thưa cô muốn thở được phải bỏ tay ra, tôi nói: Chúng  ta thở được là nhờ có không khí và tôi đặc ra vấn đề cho trẻ giải quyết như:  Không khí có ở đâu? cháu Như Hoa thì nói con không biết, cháu Phương Anh   thì nói không khí ở đây? Tôi hỏi vì sao con biết là ở đây có không khí thì cháu   trả lời: Vì con thở  được. Để  xem bạn nói có đúng không, tôi cho trẻ  đứng ở  trong lớp, ngoài cửa, ngoài sân và hỏi trẻ  có thở  được không? Rồi tôi kết  luận: Không khí có  ở  xung quanh chúng ta. Tôi tiếp tục đặt ra tình huống  “Chúng ta có nhìn thấy không khí không?”  “Có bắt được không khí không?”  có cháu nói không bắt được, có cháu nói có bắt được, vậy làm thế nào để bắt  được không khí? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy  túi  nilông.... để bắt không khí.     Trò chơi 2:  “Vợt không khí”             Tôi phát cho mỗi trẻ một túi ni lông và yêu cầu trẻ vợt không khí vào   túi rồi buộc lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ nói: Túi phồng   to giống như quả bóng. Tôi hỏi: Vì sao túi lại phồng?... Tôi giải thích cho trẻ  biết “Vì trong túi có không khí”. Để biết điều đó có chính xác không, tôi chia   trẻ  làm 2 nhóm. Nhóm 1 tôi cho trẻ  dùng tăm chọc vào túi ni lông rồi áp vào   má (Hình 5),  hỏi trẻ  cảm thấy thế nào? (mát, có gió...), Nhóm 2 tôi cho trẻ  dùng tăm chọc túi nilông và thả xuống chậu nước và thấy hiện tượng gì xảy  ra (bong bóng nổi lên) Vì sao? Vì trong túi nilông có không khí....... Cứ  như  vậy giờ thí nghiệm trở nên sôi động và trẻ rất vui, hứng thú say sưa tìm hiểu  để rút ra được kết luận: Không khí có tất cả  xung quanh chúng ta, không khí  không có màu, không nhìn thấy được, nhờ  không khí mà con người mới thở  được ..... 12
  13.                              Hình 5: Trẻ thả túi nilong vào nước.        Như  vậy là trẻ  đã được trực tiếp quan sát, tự  mình, trải nghiệm suy   đoán, phân tích và tìm ra một kết luận mà mình cho là đúng và khi thí nghiệm  thành công, tôi thấy trên khuôn mặt trẻ  hiện rõ vẻ  thích thú, phấn khởi vô  cùng. Với thí nghiệm nhỏ này tôi thấy vui và trẻ lớp tôi đã thực sự chủ động   khi làm công việc thí nghiệm, giúp trẻ  tự  tin, tự  lập suy nghĩ , tự  tìm ra kết  quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm.          Biện pháp 3: Khám phá khoa học ở moi luc, moi n ̣ ́ ̣ ơi:       Không chỉ cho tre khám phá kh ̉ oa học vao cac gi ̀ ́ ơ hoat đông chung mà tôi ̀ ̣ ̣   còn cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc mọi nơi, những nội dung tôi cho trẻ  khám phá tùy thuộc từng chủ đề Ví dụ: Ở hoạt động ngoài trời với chủ đề “Thế giới thực vật”. Tôi cho  trẻ khám phá “sự sinh trưởng của cây”, để trẻ thấy được quá trình lớn lên của  cây. Ngay từ  đầu chủ  đề  tôi đã chuẩn bị  sẵn những thùng chứa đất tơi xốp:  Nhóm thì gieo hạt đỗ, nhóm thì gieo hạt ngô, nhóm thì gieo hạt rau cải.....Tôi  yêu cầu trẻ hàng ngày chúng ta chỉ tưới nước cho chậu gieo đỗ  và chậu gieo   hạt ngô, còn chậu gieo cây rau cải thì không tưới nước để  vào gậm cầu   thang?. để  xem điều gì sẽ   xảy ra. Tôi thấy trẻ  lớp tôi rất tò mò, muốn biết  điều gì sẽ xảy ra với 3 chậu cây vừa gieo hạt. Một tuần sau tôi mang 3 chậu  cây ra cho trẻ cùng quan sát, trẻ nào cũng ngạc nhiên hỏi:  Tại sao cây đỗ mọc  13
  14. lên mà hạt vẫn  ở trên rồi mới mọc ra 2 cái lá còn cây ngô thì lại mọc thẳng  lên và ra lá? Hay cháu Đức Minh nói “Tại sao chậu hạt rau cải của mình lại  không mọc lên nhỉ?” Những câu hỏi này đã được trẻ thảo luận rất sôi nổi, có  cháu bảo vì hàng ngày chậu hạt cải không được tưới nước giống như cây đỗ  và cây ngô, có cháu lại bảo:  Chắc là ông mặt trời không chiếu ánh sáng cho  chậu hạt rau cải,...Như vậy trong quá trình trẻ trải ngiệm quan sát, trẻ không   chỉ  nhận ra được sự  khác nhau giữa cây này và cây khác, mà còn hiểu được  cây lớn lên và sống được cần có ánh nắng mặt trời, không khí và sự chăm sóc   của con người như  tưới nước cho cây......Điều đó chứng tỏ  rằng trẻ  đã có  những kinh nghiệm ban đầu về  quá trình sinh trưởng của cây, cây cần gì để  duy trì sự sống….  Cũng có khi tôi cho trẻ  làm những thí nghiệm nhỏ   ở  ngoài sân trường  như  thí nghiệm “Tan hay không tan”.  Ở  thí nghiệm này tôi chuẩn bị  cho trẻ  những chiếc cốc đựng nước, các vật: muối, đường, cát, sỏi, vôi.....cũng giống  như ở thí nghiệm “vật chìm – vật nổi”, tôi cho trẻ sờ, cầm, nắm và dự  đoán   xem vật nào tan, vật nào không tan rồi cho trẻ thực hành để biết xem bạn nào  nói đúng bạn nào nói sai. Sau khi trẻ trải nghiệm trẻ đã rút ra được kết luận:  những vật tan trong nước: Muối, đường,..., còn những vật không tan được   trong nước là: Cát, sỏi, .... Để  gây sự  hứng thú và tò mò của trẻ tôi tập trung  trẻ lại và thả một cục vôi xuống nước xem điều gì sẽ  xảy ra? đa số  trẻ đều   nói là dưới nước đang có hiện tượng sủi bọt, tôi cho trẻ sờ xung quanh lọ vôi   và hỏi trẻ cảm thấy thế nào, trẻ nói “Con thấy rất nóng”, lúc này tôi mới giáo   dục trẻ: khi thả cục vôi xuống dưới nước sẽ có hiện tượng sủi bọt, bên ngoài   bình vôi rất nóng vì vậy các con không chơi  ở  chỗ  người ta tôi vôi. Đây là   hình thức tôi giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về bản chất của các sự vật hiện   tượng, đồng thời giúp trẻ  giải quyết những tình huống diễn ra trong cuộc   sống hàng ngày một cách tự tin và biết tránh xa những nơi gây nguy hiểm cho  bản thân. Bên cạnh đó, hoạt động góc cũng góp phần không nhỏ vào việc tích luỹ  cho trẻ những kiến thức đơn giản, thực tế.         Các giờ  hoạt động chiều   tôi cho trẻ  khám phá khoa học thông qua  những thí nghiệm đơn giản      Ví dụ: Chỉ bằng 2 cốc nước tôi có thể thu hút trẻ  và giúp trẻ khám phá 1   số hiện tượng đơn giản về nước thông qua 1 số thí nghiệm như “Nước nóng  – nước lạnh – nước bốc hơi”, Thí nghiệm “Nhanh – chậm”, “Đổi màu”, hay  thí nghiệm về “sự cần thiết của không khí”. Tôi dùng 2 cây nến đang cháy và  1 chiếc cốc (Hình 6). Tôi hỏi điều gì sẽ  xảy ra khi cô úp chiếc cốc này vào   cây nến để cho trẻ được phán đoán, có trẻ  nói: Nến cháy to hơn, có cháu lại  bảo nến tắt, có cháu lại bảo nến cháy nhỏ hơn... Sau đó tôi làm cho trẻ xem.   Lúc này tôi mới đưa câu hỏi. Taị  sao cây nến lại tắt để  trẻ  trả  lời, rồi tôi đi   14
  15. đến kết luận: Vì khi chiếc cốc úp vào bên trong đó kín không còn không khí  nữa   nên   cây   nến   không   cháy   được   còn   cây   nến   bên   cạnh   vẫn   cháy   bình  thường    Hình 6: Hình ảnh cô làm thí nghiệm với 2 cây nến.   Hay trong giờ đón ­ trả trẻ tôi tổ  chức trò chơi vừa dạy cho trẻ  những  kinh nghiệm nhỏ vừa tạo được hứng thú cho trẻ.  Ví dụ: Trò chơi “Gọi điện thoại”, cho trẻ gọi điện thoại cho bạn bằng   ống bơ sữa bò và hỏi trẻ khi được nghe qua ống bơ các con cảm nhận thế nào  để trẻ  đưa ra những câu hỏi thắc mắc nhằm kích thích tính tò mò, ham hiểu  biết nhằm phát triển tư duy của trẻ.          Biện  pháp  4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám   phá khoa học:        Như chúng ta đã biết, không phải ở  tiết học nào cũng có thể  cho trẻ  trải nghiệm bằng vật thật mà có những tiết phải sử  dụng  ứng dụng công   nghệ thông tin  như  một số bài dạy trong chủ đề  Thế giới động vật với bài  khám phá “Sự ra đời của gà con”, “vòng tuần hoàn của Bướm”.... Với những   tiết dạy trên tôi phải cho trẻ  khám phá thông qua những hình  ảnh sinh động   tôi copy   trên mạng để   giúp trẻ  hiểu rõ hơn về  vòng tuần hoàn của Bướm:  Từ  con tằm   ­>   nhộng ­> bướm ­> đẻ  trứng ­> tằm ­> nhộng ­> bướm,....   Qua việc sử dụng  powerpoint tôi thấy trẻ thích thú say sưa khám phá giúp giờ  học đạt kết quả tốt hơn. 15
  16. Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống  mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách   mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay   từ  cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ  thông tin như một  phần của hoạt động giáo dục không thể  thiếu. Không chỉ  với người lớn mà  đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì  thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống.         Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiến thức cho trẻ không phải   sự vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với   hoạt động khám phá khoa học như  tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan  sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên,.. hay chúng ta không thể có thời gian để  chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh  sản của một số  loại vật nuôi, …chính vì vậy để  trẻ  được tìm hiểu thế  giới   xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết  học là một việc cần thiết.        Khi sử  dụng công nghệ  thông tin như  các bài powerpoint vào các tiết  học khám phá khoa học. Tôi nhận thấy trẻ  tỏ  ra rất hào hứng, thích thú và   cũng giúp trẻ nhận biết sự vật­ hiện tượng một cách rõ ràng hơn.       Ví dụ: Khám phá động vật sống trong rừng.   Vì điều kiện khó khăn và thiếu thốn nên nhà trường không thể đưa trẻ  đến vườn bách thú để  trẻ  quan sát thực tế  các con vật đó. Tôi cho trẻ  xem  hình ảnh các loài động vật rừng trên Powerpoint .Từ đó mà trẻ sẽ biết một số  đặc điểm cơ bản: tiếng kêu, cấu tạo bên ngoài, thức ăn, vận động, cách kiếm  ăn của chúng...                          16
  17.                       Hình 7: Trẻ khám phá các loài động vật sống trong rừng            Biện pháp 5:  Phối hợp với với phụ huynh.       Để  nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học của trẻ  trong   trường mầm non, ngay từ  đầu năm học tôi đã chủ  động  ghi lại các số  điện   thoại của phụ huynh, gặp gỡ trao đổi với phụ  huynh qua các giờ  đón trả  trẻ  và qua buổi họp phụ  huynh để  phụ  huynh  hiểu thêm về  các hoạt động của  trẻ trong trường mầm non, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho các con có  cơ hội được tìm tòi, trải nghiệm, khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi.        Ở  lớp tôi luôn cố  gắng làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ  huynh như  thông qua góc tuyên truyền của lớp, trang trí những hình  ảnh của  chủ đề đang học một cách sinh động. Thường xuyên trao đổi về tình hình sức   khoẻ của trẻ, tình hình học tập của trẻ. Đặc biệt qua các buổi đón trả trẻ tôi  đã trao đổi với các bậc phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở lớp, về các   chủ đề chủ điểm trẻ đang học giúp phụ huynh nắm rõ từ đó có thể tạo điều  kiện cho trẻ được trải nghiệm ở nhà, củng cố thêm kiến thức .       Ví dụ: Trong chủ  đề  “Thế  giới thực vật” Hôm nay tôi cho trẻ  làm thí  nghiệm “Sự cần thiết của ánh sáng đối với sự phát triển của cây”. Trẻ được  tham gia trải nghiệm và thực hiện công việc xong do thực nghiệm cần thời   gian trẻ  mới thu được kết quả  và có thể  một số  trẻ  nghỉ, thông qua trao đổi  với phụ huynh, phụ huynh nắm được, từ đó tạo điều kiện cho trẻ được thực  hiện việc gieo hạt, quan sát sự khác biệt của cây có ánh sáng và cây đặt trong  17
  18. bóng tối ở nhà. Khi được cô thường xuyên hỏi thăm về sản phẩm thì trẻ tỏ ra   rất  hứng thú, khi chính trẻ  thực hiện và khám phá. Nhận được kết quả  giúp  trẻ nhớ hơn, hiểu và kích thích trí ham học hỏi.       Trang thiết bị  đồ  dùng đồ  chơi  ở  lớp còn thiếu thốn rất nhiều nên tôi   thường vận động các bậc phụ huynh cùng tham gia sưu tầm các loại đồ dùng   đã qua sử dụng ở gia đình như: Sưu tầm các loại tranh ảnh về các con vật hoa  quả, một số  danh lam thắng cảnh để   ủng hộ, có bậc phụ  huynh đã  ủng hộ  các cây cảnh, cây hoa và một số  loại cây ăn quả  để  trồng ở  vườn trường và  góc thiên nhiên.         Hàng ngày, trước khi dạy một bài tìm hiểu nào tôi thường xuyên trao   đổi với các bậc phụ  huynh về  bài học ngày hôm nay về  nhà các bậc phụ  huynh cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể  cung cấp cho trẻ  một  số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn. 6.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến.   Đề tài này được áp dụng ở lớp 4 ­ 5 tuổi trong trường mầm non. 7. Những thông tin cần phải bảo mật:  Không có. 8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. ­ Điều kiện cơ sở vật chất: Đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị dạy học. ­ Điều kiện về con người: Giáo viên, trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. 9. Đánh giá lợi ích thu được, dự  kiến có thể  thu được do áp dụng  sáng kiến. Sau quá trình nghiên cứu đề  tài và qua việc áp dụng một số  giải pháp  của bản thân vào hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4– 5 tuổi  từ tháng 8/2016 đến 15/02/2017, tôi đã thu được kết quả sau: Bảng B: Đánh giá đến ngày 15/02/2017 Nội dung Tốt Khá  TB Y ếu Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ trẻ trẻ trẻ trẻ Trẻ tích cực tham gia khám phá      20 80% 4 16% 1 4% 0 0% Trẻ có khả năng quan sát ghi nhớ 17 68% 6 24% 2 8% 0 0% Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so  16 64% 7 28% 2 8% 0 0% sánh, tổng hợp. Nhận xét:   Qua bảng A và bảng B cho thấy sự  tiến bộ  rõ rệt của trẻ  sau khi áp  dụng các biện pháp vào lĩnh vực khám phá khoa học. 18
  19. Kết quả khi sử dụng biện pháp trên như sau: Nội dung   Tháng 8/2016  15/02/2017 Trẻ tích cực tham gia khám phá          48% 80% Trẻ có khả năng quan sát ghi nhớ 32% 68% Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so sánh, tổng hợp. 28%          64%   Với kết quả trên, tôi chắc chắn rằng đến hết năm học 2016 – 2017 tỉ lệ  tốt sẽ tăng lên nhiều hơn nữa. *Lợi ích về kinh tế:  ­ Giáo viên tự  sưu tầm hoặc vận động phụ  huynh tham gia  ủng hộ  những đồ  dùng đã qua sử  dụng, tìm kiếm được nguồn tài liệu trên mạng   Internet mà không mất tiền mua nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu hoạt  động khám phá khoa học qua các thí nghiệm, trò chơi, khám phá lễ hội,... ­ Đối với phụ  huynh thay vì trước đây phải loay hoay không biết làm  sao có thể  cho con khám phá khoa học, họ  thường bỏ  ra một khoản tiến   lớn để  mua đồ  chơi cho con thì nay họ  đã biết hướng dẫn con tìm hiểu,  khám phá khoa học từ  chính những hoạt động gần gũi, giản đơn hằng   ngày tại gia đình.     *Lợi ích đối với xã hội:        ­ Làm tăng vốn hiểu biết cho trẻ, các cháu hứng thú tham gia các hoạt  động, sáng tạo trong mọi công việc.      ­ Tạo được môi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề,   đồ  dùng đồ  chơi và trang thiết bị  cũng đã được trang bị  đầy đủ  hấp dẫn  trẻ.     ­ Các hoạt động khám phá khoa học không còn tẻ nhạt, khô khan đối với   trẻ mà trẻ tích cực tham gia hoạt động phát huy tính sáng tạo và khả năng  tư duy khi khám phá khoa học cụ thể trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng hoạt  động. Trẻ có kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại tốt, hiểu biết rộng về tự  nhiên cũng như xã hội … Do đó việc chú trọng dạy trẻ  khám phá khoa học cho trẻ  ngay từ  lứa  tuổi mầm non là tạo dựng những nền tảng ban đầu vững chắc và đúng  đắn cho quá trình phát triển sau này của trẻ. Góp phần đào tạo cho xã hội,  cho đất nước một thế hệ trẻ phát triển toàn diện.  9.1.  Đối với giáo viên: ­ Giúp nắm chắc nội dung chương trình, phương pháp bộ môn. 19
  20. ­ Tạo môi trường phong phú. Sử  dụng đồ  dùng trực quan một cách có   hiệu quả. Biết khai thác những nội dung, thông tin cần thiết để   ứng dụng  công nghệ thông tin vào trong giảng dạy. ­ Nâng cao khả năng sử dụng linh hoạt, đa dạng hoá các hoạt động cho  trẻ đỡ nhàm chán và làm tăng sự tích cực hoạt động của trẻ. ­ Luôn tự  trau rồi cho mình lượng kiến thức còn thiếu, tích cực tìm tòi,  sáng tạo trong việc tổ  chức các hoạt động khám phá khoa học nhằm phát  triển nhận thức, tạo điều kiện cho trẻ  được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá,  tăng cường thêm những kiến thức, kinh nghiệm cho trẻ  về  các sự  vật hiện   tượng xung quanh trẻ, giúp trẻ  vươn tới, chiếm lĩnh những kiến thức khoa  học, đặt nền móng vững chắc cho trẻ bước vào chân trời tri thức. ­ Thường xuyên kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong việc tổ  chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.          ­ Linh hoạt trong cách tổ chức các hoạt động khám phá khoa học nhằm  khắc phục những khó khăn thiếu thốn của trường, lớp: Thiếu cơ sở vật chất,  đồ dùng dạy học, đồ chơi chưa đầy đủ vì học sinh quá đông...vv để trẻ có  được sự phát triển tốt nhất. ­ Trải qua quá trình thực hiện sử  dụng một số  biện pháp và hình thức  phát triển tính  tích  cực  vận  động  trong  giáo  dục  thể   chất  tôi  rút  ra   được  một  số  kinh nghiệm cho bản thân:  + Trước hết phải lập kế hoạch phù hợp với lứa tuổi của trẻ.  + Khi có kế  hoạch rồi phải thống nhất với các giáo viên trong lớp về  nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động cho phù hợp. + Để tổ chức tốt các giờ khám phá cần có sự ủng hộ nhiệt tình của các   bậc phụ huynh.  + Cần có những hình thức phong phú và đa dạng, lôi cuốn trẻ tham gia  hoạt động. + Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí trẻ khi tổ chức các hoạt động khám  phá cần khuyến khích tính tích cực, tự giác ở trẻ.  +Tổ chức cho trẻ khám phá thường xuyên, liên tục, đều đặn để trẻ tích   cực hơn.   Hoạt động khám phá  phát triển toàn diện cho trẻ, vì vậy giáo viên cần   cho trẻ hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.  ­ Để trẻ khám phá có hiệu quả cần xây dựng kế hoạch và tổ chức thực  hiện đảm bảo tính khoa học và hệ thống, đảm bảo tính vừa sức và coi trọng  đặc điểm cá nhân của trẻ. 9.2. Lợi ích đối với trẻ: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2