intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thế giới sau chiến tranh lạnh - Một số đặc điểm và xu thế

Chia sẻ: Bht Dng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:4

1.653
lượt xem
149
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay đổi với những nét nổi bật sau đây : Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm (1), bởi sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm mới,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thế giới sau chiến tranh lạnh - Một số đặc điểm và xu thế

  1. Thế giới sau chiến tranh lạnh - Một số đặc điểm và xu thế tham vọng và có vai trò ngày càng lớn của Giáo hội Thiên chúa trong Nguyễn Quốc Hùng 09/08/2008 khoảng 15 năm qua với "điều mới mẻ hơn và sự gặp gỡ của Giáo hội với Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay những phong trào xã hội có khuynh hướng chống đối chính trị" (3), như ở đổi với những nét nổi bật sau đây : Ba Lan, Tiệp Khắc và Rumani... Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật hình thành, nhưng trong gần một thập kỷ qua sau chiến tranh lạnh, có thể tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này thấy những xu thế mới phát triển nổi bật trên thế giới là: phải kéo dài trong nhiều năm, có thể từ 30 đến 50 năm (1), bởi sự chuyển 1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ không trải qua chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế giới hiện đang quốc tế lấy đối đầu chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như hai nước Mỹ - Xô và " một bị thương Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. một bị mất" (4). Trong khi đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực kinh tế - chính trị là chính lại thu được nhiều tiến bộ, kết quả như các duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại, được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, mà chủ yếu là nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy thực lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật. yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh khả năng thực hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh thế giới theo chiều hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và tế. Trong thời điểm hiện nay, kinh tế trở thành trọng điểm trong quan hệ đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới mới quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc. M ỹ. Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức độ nào đó đã vượt quá tính toán Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy về địa - chính trị. lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, một nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền công tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nghệ có trình độ cao và đó mới là cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự của nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp mỗi quốc gia. này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc" xuất bản và dễ dàng. năm 1988, Paul Kennedy nhà sử học Mỹ, đã nghiên cứu nguyên nhân quy Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng tạo nên môi trường cho sự phát triển của luật hưng thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong 500 năm các thế lực tôn giáo. Đó là Đạo Hồi, một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, gần đây. Tác giả nhấn mạnh rằng các nguồn lực kinh tế, sự phát triển khoa có mặt trong 75 nước với 1 tỷ tín đồ. Đạo Hồi đang hoạt động sôi nổi trong học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất lĩnh vực chính trị thế giới, nhất là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan - " Nó giống nước, quyết định vị trí quyền lực của đất nước trong cục diện thế giới. Sự như cơn sóng không lồ không chỉ tung phá biên giới quốc gia và khu vực, phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự hưng thịnh và suy làm rung động toàn bộ thế giới Hồi giáo, mà còn trên chừng mực nhất vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc gia khác trong một thế định, ảnh hưởng đến sự thay đổi và phát triển tình hình thế giới. Trong đó, giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau. thế lực chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan đặc biệt phát triển và lan rộng nhanh 2. Xu thế hòa dịu trên quy mô thế giới, hòa bình thế giới được củng chóng khiến mọi người chú ý" (2). cố. Đó là chưa kể tới một sự cuồng nhiệt của những tôn giáo khác cũng nổi lên Sau khi Trật tự hai cực tan rã, hiện tượng đáng chú ý nhất là chủ nghĩa dân sau chiến tranh lạnh như vụ xung đột chủng tộc giữa tín đồ Ấn Độ và Hồi tộc nổi lên ở khắp nơi. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song hòa giáo ở Punjab tháng 11-12/1992, sau đó lan rộng ra cả hai nước Ấn Độ và bình ở nhiều khu vực vẫn bị đe dọa, thậm chí có nơi xung đột diễn ra Pakixtan với hàng nghìn người bị thiệt mạng. Hoặc những hoạt động đầy nghiêm trọng và chiều hướng ngày càng rối loạn. Có người còn tỏ ra bi
  2. quan cho rằng đây là "thời kỳ hỗn loạn", "thế giới ngày nay bạo loạn bùng khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, nổ, cắt không đứt, dẹp vẫn loạn" (5). Bởi "xiềng xích của cuộc xung đột mở rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế để xây dựng Đông - Tây đã mất đi, chỉ còn lại những lợi ích dân tộc đấu tranh với nhau" kinh tế nước mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh. (6). Trước những mâu thuẫn tranh chấp với nhau, các nước lớn đều tìm kiếm Khác với phong trào giải phóng dân tộc trong thập niên 60, hiện tượng chủ các biện pháp với xu hướng thông qua đối thoại, thỏa hiệp và tránh xung nghĩa dân tộc "mới" phần lớn mang đặc điểm sự rạn nứt giữa dân tộc và đột. Đặc điểm nổi bật trong các quan hệ điều chỉnh giữa các nước lớn là quốc gia ngày càng lớn, thách thức nghiêm trọng tính hợp pháp của chính tính hai mặt. Sự khác nhau về ý thức hệ và chạy đua về lợi ích, tranh giành quyền về nền tảng của chủ quyền nhà nước. Manidôn Tuarenơ cho rằng, ảnh hưởng quyết định tính hai mặt trong chính sách đối ứng, quyết định sự đó là cuộc "khủng hoảng dân tộc" - cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp tồn tại song song giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa mâu thuẫn và hài hòa, của bản thân nhà nước. Bởi vì từ nay nhà nước phải chứng minh nó có khả tiếp xúc và kiềm chế. Sự khác nhau về nền tảng kinh tế còn có thể dẫn tới năng đáp ứng những yêu cầu xã hội chứ không phải xác định những yêu sự mất cân bằng mới. cầu đó là gì. Những yêu cầu đó ngày nay là về mặt kinh tế và về mặt dân Từ sau chiến tranh lạnh, nhất là những năm gần đây, mối quan hệ giữa năm tộc (7). nước lớn : Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc vừa có điều chỉnh Trong khi đó, một hiện tượng nổi bật trong nền chính trị của thế giới hiện lớn lại vừa nhộn nhịp những chuyến thăm viếng lẫn nhau với những tuyên đại là: ở nhiều nơi, một quốc gia có nhiều chủng tộc, dân tộc hoặc bộ tộc; bố phương châm, nguyên tắc đối ngoại mới. hoặc một chủng tộc, dân tộc lại phân bổ trong nhiều quốc gia (như người Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối với Kurk có ở Irắc, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước Trung Á thuộc Liên Xô Nga là "Tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ Nhật trước đây). Chỉ ở một số ít nước có sự đồng nhất về dân tộc (một dân tộc - Trung, ông đưa ra bốn nguyên tắc : "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối chủ yếu hoặc một tập đoàn chủng tộc chiếm hơn 90% số dân như ở Nhật thoại, mở rộng hợp tác, hình thành trật tự chung" (9/1997). Về phía Trung Bản, Ba Lan...). Quốc, đầu tháng 11/1997, khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý Bằng lại Sự phức tạp của vấn đề dân tộc còn do trước đây các nước thực dân đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ với nước này là :"Tôn trọng lẫn nhau, phương Tây khi phân chia thuộc địa, khu vực ảnh hưởng không tính đến không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tìm kiếm điểm chung, gác biên giới tự nhiên cùng tình hình phân bố dân cư các chủng tộc, dân tộc, mà lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề bất đồng; tăng cường đối hoạch định biên giới theo sức mạnh và sự thỏa hiệp giữa chúng bằng thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi và cùng có lợi, phát triển đường kẻ thẳng tắp. Nhiều nước đã sống trong sự chênh nhau giữa các sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời đời hữu nghị". Cuối tháng biên giới dân tộc và biên giới chính trị của họ. 10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Giang Trạch Sự phục hồi và gia tăng hoạt động của các tôn giáo, nhất là gắn kết với các Dân đã đổi bốn câu trong cuộc gặp cấp cao đầu tiên vào năm 1993 "Tăng phong trào chính trị - xã hội, phong trào dân tộc càng làm phức tạp thêm tình thêm tín nhiệm, giảm bớt phiền phức, phát triển hợp tác, không đối đầu" hình ở nhiều nước. Có tài liệu cho rằng trên 1/3 số nước tồn tại sự bất thành "Tăng cường hiểu biết, mở rộng nhận thức chung, phát triển hợp tác, đồng tôn giáo nghiêm trọng là do sự khác biệt về bộ tộc, chủng tộc và dân cùng tạo ra tương lai". Giữa hai nước Liên bang Nga và Trung Quốc đã có tộc. Liên bang Nam Tư cũ có mấy chục dân tộc theo ba tôn giáo khác nhau. nhiều cuộc gặp gỡ cao cấp. Trong bản tuyên bố thứ 5, hai nước chủ trương Một xu hướng ngày nay là "làn sóng nguyên tố hóa" - thành lập quốc gia xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, thực hiện chính sách láng giềng hữu trên cơ sở dân tộc, chủng tộc đơn nhất. Những người theo xu hướng này nghị. Tổng thống Pháp Jacques Chirac chủ trương xây dựng "Quan hệ đối sẵn sàng dùng mọi biện pháp, kể cả vũ lực tàn bạo, để thành lập cho được tác toàn diện" giữa Pháp và Trung Quốc. Ông cũng kiến nghị với châu Âu nhà nước chủ quyền của dân tộc. thiết lập "Quan hệ đối tác đặc biệt với Nga...". 3. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây Mối quan hệ giữa các cường quốc và những điều chỉnh của họ rõ ràng có dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu ảnh hưởng to lớn đối với đời sống chính trị thế giới và các quan hệ quốc dài. tế, một nhân tố hàng đầu trong sự hình thành Trật tự thế giới mới, "và Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong trong một tương lai gần, không một nước nào có thể gia nhập vào "bộ năm" thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất gồm Mỹ, Liên Xô (nay là Nga), Trung Quốc, Nhật Bản và EEC" (8). phát từ lợi ích chiến lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều 4. Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và các tổ chức liên minh quốc tế. chỉnh lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn Đó là một xu thế ngày càng phát triển với những nét nổi bật là :
  3. 1/ Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới. Thương mại Exxon sáp nhập với Mobil với giá trị 77,3 tỷ đôla, tạo thành công ty dầu mỏ thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần lớn nhất thế giới. Hoặc Travellers sáp nhập với Citicorp, với trị giá 72,6 tỷ trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn đôla, nhằm tạo ra tập đoàn tài chính khổng lồ cung cấp các dịch vụ ngân sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, hàng, đầu tư, bảo hiểm... Tập đoàn mới này sẽ có tổng tài sản khoảng 700 tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của tỷ đôla. Hai ngân hàng Mỹ Bank of America và National Bank sát nhập với thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng trị giá 61,6 tỷ đôla... "Nhờ cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ với mũi nhọn là công nghệ tin học mà các CTXQG, đa quốc gia được phát thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên. triển thành một hệ thống toàn cầu - tạo ra "cốt vật chất" cho xu thế toàn Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các cầu hóa" (9). nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những 3/ Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới. Từ đầu những Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế năm 70, hoạt động về ngân hàng trên thế giới tăng với tốc độ 20% hàng giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất năm, nhanh hơn tốc độ phát triển thương mại thế giới và hơn tốc độ phát khẩu thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các triển của tổng sản phẩm thế giới nhiều lần. Gần đây, những trao đổi về nước Tây Âu. tiền tệ tăng lên rất nhiều, gấp 20 lần trao đổi về thương mại. Trao đổi về Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn tài chính và tiền tệ là 350 tỷ đôla mỗi ngày. Năm 1988, 10.000 tỷ đôla đã thông, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc vượt biên giới quốc gia để đầu tư ở nước ngoài. đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối một hệ thống liên lạc toàn cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được tăng lên lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa. hàng triệu lần. Không có hệ thống này thì không thể ra đời những công ty Với việc xóa bỏ phân công lao động trên sự phân chia thế giới thành những xuyên quốc gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới. khu vực độc quyền của chủ nghĩa thực dân và sự phân chia thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập, nền kinh tế thế giới được quốc tế hóa và toàn 2/ Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới còn được nâng cao trong cầu hóa đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế. vai trò ngày càng lớn của các Công ty xuyên quốc gia (CTXQG). Năm 1960, Bên cạnh mặt quốc tế hóa, nền kinh tế thế giới còn có quá trình khu vực 200 CTXQG lớn nhất thế giới chiếm 17% tổng sản phẩm của toàn thế hóa trên thế giới. Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các giới, năm 1984, 200 Công ty này chiếm 26%, dự đoán đến năm 2000 các tổ chức liên minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Ở châu CTXQG sẽ chiếm 50% tổng sản phẩm thế giới. Năm 1985, có 600 CTXQG Âu, lớn nhất là Thị trường chung châu Âu hình thành từ 1975. Tháng có số vốn trên 1 tỷ đô la, với tổng doanh số 3000 tỷ đôla, với tổng số công 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập nhân là 50 triệu người. Nếu như các nước chậm phát triển có quan hệ tốt liên minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng với các CTXQG thì có thể tranh thủ được vốn, kỹ thuật cũng như sự phân tiền chung EURO vào tháng 1/1999. Hai mươi bốn nước công nghiệp phát công lao động trong nền kinh tế thế giới, có lợi cho việc phát triển kinh tế triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD vào tháng với tốc độ cao. Xã hội thông tin là một nội dung quan trọng của quốc tế hóa 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. Ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị nền kinh tế thế giới. trường tự do thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) NAFTA và đang Các CTXQG thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa trên thế giới, ngược lại quá mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do. Trước đó, năm 1975, các trình toàn cầu hóa lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các CTXQG và chiến lược nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La tinh (SELA) kinh doanh của họ, kể cả đưa tới làn sóng sáp nhập chúng để trở thành các với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều CTXQG siêu lớn với bao hệ quả tích cực và tiêu cực. Gần đây, vào những kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở năm cuối cùng của thế kỷ, làn sóng sát nhập của các CTXQG tăng lên Đông Nam A', tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở thành nhanh chóng. Nếu từ năm 1980 đến năm 1989 ước tính tổng giá trị các vụ ASEAN - 10 và hình thành một khu vực thương mại tự do (ASEAN-AFTA) sát nhập và mua bán vào khoảng 1.300 tỷ đôla thì riêng năm 1998 đã có tới trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam Á và Ấn Độ, Pakixtan, 7700 vụ sáp nhập với tổng giá trị lên đến 1200 tỷ đôla . Trong đó có những Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành lập Hội cuộc "hôn nhân" lớn về kinh tế như của hai Công ty dầu mỏ khổng lồ hợp tác khu vực Nam A' (SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển kinh
  4. tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam A' thông qua sự hợp tác nhiều bên. thường có sự đối lập, ngược chiều nhau được gọi là "cơ cấu song trùng", Năm 1989, ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác hơn nữa lại được xem như một đặc trưng cơ bản trong quan hệ chính trị kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam quốc tế hiện nay. Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và Tình hình thế giới sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới, ít nhất là châu Á (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu Á cộng thêm Uỷ viên Ban trong những thập niên đầu thế kỷ XXI ? châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ trên thế giới . Thạch (1923-1998) đã đưa ra những dự báo : "Trong 25 năm tới từ 1996 Bên cạnh xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới, xu thế đến 2020, có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới, và chạy đua mở cửa hợp tác đồng thời cũng có xu hướng bảo hộ mậu dịch. kinh tế toàn cầu sẽ thay thế cho chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Tuy Cùng với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hiện tượng nổi bật từ sau chiến vậy vẫn có khả năng xảy ra chiến tranh cục bộ tuy không nhiều và lớn như tranh thế giới thứ hai là sự ra đời của các tổ chức quốc tế. Hiện nay trên trong 50 năm qua. Chiến tranh cục bộ xảy ra chủ yếu là do xung đột dân thế giới có hơn 4000 tổ chức quốc tế, trong đó có khoảng 300 tổ chức liên tộc và tôn giáo.” quốc gia. Các tổ chức quốc tế rất đa dạng, chức năng cũng không dừng lại ... Các nước lớn đã đi đến chấm dứt chiến tranh lạnh, chấm dứt chạy đua ở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế và khủng hoảng. vũ trang, mở ra thời kỳ hòa hoãn, giảm các kho vũ khí, đấu tranh và hợp tác Các tổ chức quốc tế quan trọng hàng đầu là Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ trong cuộc chạy đua kinh tế. Cuộc đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức thương mại thế giới đua toàn cầu về kinh tế sẽ là hình thức đấu tranh chủ yếu trên thế giới với (WTO)... cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi rất to lớn hàng Các tổ chức quốc tế có tiềm năng khó hình dung hết, vai trò của nó được năm nền kinh tế thế giới. mở rộng ghê gớm. Lực lượng quốc tế tương đối mạnh lên, chủ quyền ... Các dân tộc chậm phát triển trên thế giới sẽ đứng trước những thời cơ quốc gia dân tộc tương đối yếu đi có thể là xu thế song hành trong một thời rất lớn cũng như những thách thức rất lớn... Hoặc các nước này có thể bỏ gian dài sắp tới. Đồng thời trong quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền qua giai đoạn công nghiệp hóa để đi thẳng vào thời đại thông tin và đưa kinh tế, không ít khó khăn và thách thức đặt ra trước hết đối với các nước nền kinh tế phát triển rất nhanh chóng trong 20 năm. Hoặc các nước này lỡ đang phát triển. Như trong thương mại thế giới từ sau cuộc khủng hoảng cơ hội và sẽ bị tụt hậu rất xa" (10) 1973, tỷ trọng ngoại thương của các nước đang phát triển giảm 1/3, giá Nước ta cũng nằm trong tình hình ấy./. hàng nông sản và khoáng sản giảm sút, giá hàng công nghiệp tăng lên. Hoặc quá trình toàn cầu hóa đã đưa tới sự phân công lao động có quy mô mới, rộng lớn trên thế giới, nhưng sự phân công lao động giữa các nước giàu và nghèo chưa có sự thay đổi căn bản. Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu nguyên nhiên liệu, còn các nước phát triển tiếp tục xuất khẩu sản phẩm máy móc và phương tiện vận tải. Sự phân công lao động vẫn không có lợi cho các nước đang phát triển. Các công ty xuyên quốc gia siêu lớn củng cố sức mạnh của mình ở các nền kinh tế phát triển và tiếp tục vươn tới các nền kinh tế kém phát triển hơn. Vì vậy, các nước kém phát triển hơn đang được cảnh báo về nguy cơ các CTXQG siêu lớn trở thành những tên thực dân về kinh tế trong thế kỷ XXI. Quá trình tập trung hóa thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đồng thời sẽ có thể làm xói mòn chủ quyền các quốc gia. * * * Bàn cờ quốc tế đang sắp xếp lại với những thay đổi to lớn. Nhưng điều đáng lưu ý, như một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh, trong mỗi xu thế lại
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2