intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Hgnvh Hgnvh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

86
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Cho vay kích cầu đối với các Doanh nghiệp của các NHTM Việt Nam hiện nay nêu lý luận chung về cho vay doanh nghiệp. Cho vay doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao cho doanh nghiệp một khoản tiền để sử dụn g vào mục đích và thời hạn cho vay theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA NGÂN HÀNG  MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tiểu luận: CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA CÁC NHTM VN HIỆN NAY GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh HVTH: Lớp: Ngân hàng 4 ngày 1 – K17 TP.HCM, tháng 01/2009
  2. CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA CÁC NHTM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY DOANH NGHIỆP 1.1 Khái niệm cho vay doanh nghiệp: Cho vay doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao cho doanh nghiệp một khoản tiền để sử dụn g vào mục đích và thời hạn cho vay theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay đến khhi trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay có thể chia thành ngắn hạn (cho vay đến 12 tháng), trung hạn (từ trên 12 tháng đến 60 tháng), dài hạn (cho vay trên 60 tháng) 1.2 Nguyên tắc cho vay: - Doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Việc sử dụng vốn vay sai mục đích có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng sau này, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. - Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều này xuất p hát từ tính tạm thời nhàn rỗi của n guồn vốn mà ngân hàng đã huy động từ tiền gửi của các khách hàng để cho vay. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên tất yếu sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi. - Khách hàng vay vốn phải thỏa mãn một số điều kiện vay. Đối với cho vay doanh nghiệp trước hết doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện về năng lực pháp luật dân sự, có mục đích vay vốn hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, có phương án kinh doanh khả thi và hiệu quả, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước. 1.3 Các phương thức cho vay: Cho vay doanh nghiệp có nhiều phương thức vay như: - Cho vay từng lần: Mỗi lần vay khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tún dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
  3. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN VỪA QUA 2.1 Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp của các NHTM trong năm 2008 2.1.1 Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp trong những tháng đầu năm 2008: Những tháng đầu năm 2008, lạm phát luôn ở mức cao, kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động bất ổn. Việc cho vay đối với doanh nghiệp của các NHTM cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng khó khăn về vốn tín dụng của doanh nghiệp bắt đầu tư giữa quý I/2008, khi chính sách tiền tệ bị thắt chặt. M ặc dù rong các tháng qua, không ít doanh nghiệp vẫn có thể vay được vốn của một số NHTM, hoặc "giật gấu vá vai” chạy vạy chỗ này chỗ khác, chiếm dụng vốn của đối tác, trây ỳ công nợ đối với bạn hàng,... nhưng tình trạng đó không thể kéo dài mãi được. Không có vốn tiếp tục cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, thì hàng loạt hợp đồng thi công, hợp đồng cung ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ,... không thực hiện được. Tiếp theo đó là người lao động không có việc làm, máy móc thiết bị phải bỏ không, gây lãng phí và thiệt hại lớn cho bản thân doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Thậm chí có thể doanh nghiệp rơi vào nguy cơ bị phá sản. Bên cạnh đó bước vào quý IV, giai đoạn khẩn trương hoàn thành các hợp đồng kinh tế đã ký kết trước khi kết thúc năm 2008; chuẩn bị hàng hoá tiêu thụ cuối năm và giao hàng, xuất khẩu hàng cho đối tác của năm mới, tiêu thụ lúa hàng hoá và thu mua cá tra, cá ba sa,... cho chế biến xuất khẩu ở các tỉnh vùng ĐBSCL,... nên tình hình vốn của doanh nghiệp lại càng có tính cấp bách và trở thành chủ đề nóng hổi. Vậy đâu là nguyên nhân của tình hình trên? Có thể khái quát một số lý do chính sau đây: Các NHTM thực hiện hạn mức tín dụng theo yêu cầu kiềm chế lạm phát và an toàn hoạt động. Năm 2008, hạn mức tín dụng được đưa ra là tăng trưởng dư nợ cho vay không quá 30% so với cuối năm 2007, chỉ bằng gần 1/2 so với mức tăng khoảng 55% của năm 2007. Song đến nay mức tăng trưởng tín dụng của các khối NHTM có khác nhau. Nhiều NHTM tăng trưởng tín dụng cao trong 2 tháng đầu năm 2008 đến nay phải “hãm phanh lại”, hầu như rất ít cho vay mới. M ột số NHTM chỉ cho vay khách hàng truyền thống, quan hệ có uy tín, kinh doanh có hiệu quả. Do đó nhiều doanh nghiệp khác không vay được. M ột số NHTM, chủ yếu là NHTM cổ phần, đến nay đã đạt được mức tăng trưởng 30% rồi, nên họ cũng hầu như không cho vay mới, mà chỉ thu nợ được số vốn vay cũ thì mới cho vay ra, nhưng cho vay ra cũng chọn lọc chứ không phải doanh nghiệp nào cũng có thể vay được. M ột số NHTM khác, nhất là NHTM có quy mô lớn, mặc dù chưa đạt mức tăng dư nợ 30%, nhưng lo ngại rủi ro, nên tốt nhất để bảo đảm an toàn trong bối cảnh hiện nay họ cũng không mặn mà gì cho vay ra. Các NHTM này hầu như chỉ giải quyết vốn cho các dự án lớn về
  4. điện, xi măng,... của các khách hàng lớn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng ký từ đầu năm hay ký trước đây, một số dự án sản xuất hàng xuất khẩu, còn lĩnh vực khác thì rất hạn chế. Lãi suất cho vay đầu năm liên tục tăng cũng gây khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp trong việc chủ động chi phí để cân đối vốn cho sản xuất, kinh doanh. Với mức lãi suất cho vay nội tệ vẫn lên tới 1,6%-1,75%/tháng, hay 19,5%-21%/năm thời điểm lãi suất lên cao nhất, các NHTM đều lo doanh nghiệp làm ăn không có lãi mà trả nợ gốc và lãi cho NHTM được, nên mặc dù hạn mức tín dụng vẫn còn nhưng NHTM rất dè dặt cho vay. Không ít NHTM đánh giá, với lãi suất cao như vậy, một số doanh nghiệp “vẫn liều” vay, phải chăng là họ đành chấp nhận lỗ giai đoạn hiện nay để cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh vượt qua lúc khó khăn. Nếu không vay vốn, hợp đồng dở dang không thanh toán được. M áy móc thiết bị và nhà xưởng bỏ không, vừa lo khấu hao, vừa hao mòn vô hình, vừa tốn chi phí trông coi và bảo dưỡng. Công nhân không việc làm vừa phải trợ cấp 70% lương cho họ, hoặc không họ bỏ đi làm nơi khác, sau này rất khó thu hút trở lại. Không còn con đường nào khác đành chấp nhận phải vay. Lãi suất vốn vay cao, nhiều doanh nghiệp cũng không dám vay, vì không lấy đâu ra lãi, ra lợi nhuận để trả lãi ngân hàng. Chẳng hạn như một doanh nghiệp nhỏ và vừa vay 10 tỷ đồng, mỗi tháng tiền lãi đã lên tới 160–165 triệu đồng, đủ để trả lương cho tới 100 công nhân. Thử hỏi hiếm có lĩnh vực kinh doanh nào chịu đựng nổi lãi suất đó. Thực tế nguồn vốn cho vay thu mua lúa gạo xuất khẩu, thu mua cá tra, cá ba sa cho chế biến xuất khẩu,... ở vùng Đồng bằng sôn g Cửu Long thời gian qua là ví dụ điển hình cho tình hình trên. Lạm phát ở nước ta vẫn còn cao. Chủ trương của Chính phủ tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát nhưng Chính phủ cũng chỉ đạo là cần phải linh hoạt, đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực xuất khẩu. 2.1.2 Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp trong các tháng cuối năm 2008: Trong những tháng cuối năm 2008, lãi suất ngân hàng liên tục giảm, nguồn vốn trong ngân hàng khá dồi dào, nhưng các doanh nghiệp vẫn thiếu vốn. Nguyên nhân, do nhiều ngân hàng áp dụng các thủ tục cho vay khắt khe hơn và tron g bối cảnh nền kinh tế khó khăn, nhiều DN cho rằng mức lãi suất hiện tại vẫn không khả thi đối với các dự án của họ. Vay vốn NH tại thời điểm này rất dễ nhưng không DN nào muốn vay, bởi một lẽ thị trường không có đầu ra. Hiện tại, với lãi vay ngắn hạn khoảng 10-12%/năm thì không khả thi với các dự án, đặc biệt trong lĩnh vực BĐS có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn. Đầu tư một dự án phải huy động vốn ít nhất trong thời hạn 2-3 năm, lâu 5-6 năm, nhưn g lãi suất trung và dài hạn của các NH hiện ở mức 10-12%/năm thì DN càng khó có lãi để tiếp tục cầm cự. Hầu hết các dự án BĐS hiện nay đều gặp vướng mắc vì NH yêu cầu phải có đầy đủ giấy tờ pháp lý để hoàn tất các thủ tục thế chấp, phải có sổ đỏ. Tuy nhiên, nhiều trường hợp chủ đầu tư mong muốn vay tiền NH để triển khai các phần việc như đền bù, GPM B, xây dựng hạ tầng khu đô thị, trước khi huy động vốn của nhà đầu tư thứ
  5. cấp hoặc của chủ sở hữu các căn hộ. Chính vì không thể có đủ các giấy tờ cần thiết nên thủ tục giải ngân không thực hiện được. Thời kỳ kinh doanh siêu lợi nhuận đã qua, các DN BĐS không thể đầu tư bằng mọi giá để kiếm tiền một cách nhanh chóng, nên họ phải "trông giỏ bỏ thóc". Còn các doanh nghiệp sản xuất thì lại phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Nhiều DN sản xuất công nghiệp đang "ngồi trên đống lửa" vì tồn kho, ứ đọn g sản phẩm cao. Đây cũng là lý do DN chậm giải ngân các nguồn vốn vay, bởi càng vay, càng phải trả lãi cao khiến DN thêm khó khăn chồng chất. Năm nay, các NH đều khắt khe hơn trong khâu thẩm định cho vay. Nếu như những năm trước, DN có nợ đến hạn phải trả, nhưng không trả được thì nợ được liệt vào diện nợ đáo hạn, để tiếp tục cho vay. Nhưng năm nay, nợ đến hạn không trả thì NH cũng ngừng ngay lập tức khoản vay mới. DN vay hết hạn mức trong năm thì cũng đừng hy vọng vay thêm khoản mới. Điều này càng làm cho DN p hải cân nhắc các khoản vay sao cho có hiệu quả. Khó khăn hơn cả là các DN nhỏ và vừa. Theo khảo sát của Hiệp hội DN nhỏ và vừa VN, với mặt bằng lãi suất hiện nay, hầu hết các DN đều cho biết, rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay cho những hoạt động kinh doanh sản xuất những tháng cuối năm. Khó khăn càng gay gắt hơn đối với những DN quy mô nhỏ, vì đây là khu vực DN dễ bị tổn thương do hạn chế về quy mô, nguồn lực, thiếu tài sản thế chấp, không chịu nổi lãi suất cao. Nhiều DN quy mô nhỏ chọn cách huy động vốn từ bạn bè, người thân thay vì vay vốn NH để đỡ phải chịu gánh nặng lãi suất. Nhưng còn các DN có quy mô vừa là đối tượng bị thiệt hại nặng nề, đã buộc phải thu hẹp sản xuất để giảm dần dư nợ, thậm chí một số DN có dự án kinh doanh khả thi cũng phải dừng lại, vì với lãi suất cao sẽ không là khả thi nữa. Dù hiện một số DN cần vốn và vẫn có những nguồn vốn với lãi suất ưu đãi, lãi suất thấp nhưng điều kiện tiếp cận nguồn vốn này khó, nên nhiều DN vẫn không vay được. Các DN đang không tìm được đầu ra, càng không dám vay vốn đầu tư, sản xuất để phải gánh thêm trả lãi. Đây là thực trạng đang xảy ra tại khá nhiều DN hiện nay. Các ngân hàng đang "sàng lọc" kỹ khách hàng. Hiện nay các NH sợ rủi ro nên sàng lọc khách hàng vay vốn khá kỹ. Thủ tục vay vốn cũng siết hơn. Chẳng hạn như trước đây, tài sản định giá theo giá thị trường còn dựa vào giá ghi trên hoá đơn. Tỉ lệ cho vay trước đây có thể lên đến 70% tài sản thế chấp, nhưng nay các NH chỉ duyệt khoảng 50% hoặc cao lắm là 60%. Vì vậy, tuy lãi suất có giảm so với những tháng trước, nhưng chưa hẳn các DN dễ dàng vay được nguồn vốn mình cần. Khó khăn của DN còn ở mặt "kích cầu”. M ặc dù lãi suất cho vay đã giảm nhiều, nhưng các DN không dám vay vốn. Bởi vay vốn để làm gì khi mà không có đơn hàng, thị trường khủng hoảng, nhiều chủ trương hiện nay là co cụm lại để tồn tại. Nếu thời điểm này đầu tư thêm vốn sản xuất, chỉ có nước sản xuất xong phải bán khuyến mãi. Do đó, chính sách thiết thực nhất hiện nay của Nhà nước là nên giảm thuế, giảm phí, kích cầu. 2.2 Nội dung gói kích cầu của Chính Phủ
  6. 2.2.1 Sự cần thiết phải thực hiện kích cầu trong giai đoạn hiện nay: Trong bối cảnh tăng trưởng có xu hướng đi xuống, sản xuất ảm đạm như hiện nay, việc kích cầu là cần thiết . Thực tế cho thấy, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển hiệu quả... có tác dụng thiết thực góp phần kiềm chế lạm phát. Thúc đẩy tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần giảm nhập siêu cũng là góp phần chống lạm phát một cách bền vững. Thiếu vốn, lãi suất vốn vay quá cao, sản xuất kinh doanh bị đình trệ sau này khôi phục lại cần thời gian rất lâu và cũng rất “tốn kém". Tại Việt Nam giải quyết vốn cho doanh nghiệp cần được linh hoạt, p hù hợp với diễn biến thực tế trên cơ sở dự báo những tình huống có thể xảy ra. Hiện nay, hàng Trung Quốc đang chạy sang, nếu kích cầu chậm thì hàng Trung Quốc dễ chiếm được nhiều thị phần của nước ta, gây hậu quả xấu không dễ khắc phục. Chính vì vậy, cùng với chủ trương kích cầu của hầu hết các chính phủ các nước trên toàn thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Ở nước ta, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào vốn, yếu tố vốn chiếm đến khoảng 60%. Chính vì vậy, có thể khẳng định, không có đầu tư là không có tăng trưởng kinh tế và kích cầu thực chất là tăng vốn đầu tư. M ặc dù biết rằng chỉ chạy theo vốn như thế này là không cơ bản và rất có giới hạn, không thể đi mãi bằng con đường này, nhưng trước mắt, khi chưa “đi” được bằng con đường khoa học công nghệ, bằng năng suất cao thì buộc lòng phải sống bằng con đường này. 2.2.2 Nội dung gói kích cầu của Chính phủ Trong năm nhóm giải pháp cấp bách, về mặt vĩ mô Chính phủ tập trung làm ba việc: thứ nhất là nới lỏng chính sách tiền tệ một cách hợp lý, hiệu quả, cụ thể là hạ lãi suất; thứ hai là khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, chú ý đến thị trường trong nước; thứ ba là rà soát thể chế, cơ chế, chính sách để tạo thuận lợi cho DN. Nội dung của gói kích cầu của Chính phủ là: tổng thể hơn 100.000 tỷ đồng (khoảng 6 tỷ USD - bao gồm cả gói 1 tỷ USD công bố trước đó) cho việc kích thích nền kinh tế. Cụ thể, Chính phủ sẽ không thu về khoản 20.000 tỷ đồng tạm ứng của các DNNN năm ngoái; phát hành thêm khoảng 20.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ; để lại thuế thu nhập DN, hoãn, giãn, miễn giảm thuế chưa thu khoảng 20.000 tỷ đồng; khoản 30.000 tỷ đồng vốn đầu tư ngân sách năm ngoái chưa giải ngân hết sẽ tiếp tục được sử dụng trong nửa đầu năm 2009... Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ nới bảo lãnh cho DN tiếp cận vốn quốc tế, ước khoảng 1,2 - 2 tỷ USD phục vụ cho đầu tư, mua sắm thiết bị có lợi cho quốc kế dân sinh (tận dụng cơ hội mặt bằng giá trên thế giới đang thấp). Năm 2009, tăng trưởng tín dụng được định lượng ở mức 20 - 25% so với năm 2008, đồng nghĩa với việc hệ thống ngân hàng bơm khoảng 300.000 tỷ đồng ra thị trường. Ngoài việc giảm lãi suất, các ngân hàng sẽ cải tiến thủ tục để đồng vốn đến với DN dễ dàng hơn.
  7. Về gói kích cầu 1 tỷ USD, khoản kích cầu này sẽ có trọng tâm, trước mắt là các cơ sở hạ tầng cấp bách mang lại sự phát triển cho từng vùng, ngành cụ thể như tiêu thụ sắt thép, chương trình nhà ở xã hội, nhà ở cho sinh viên, nhà ở các khu công nghiệp, DN nhỏ và vừa… Về cách sử dụng gói 1 tỷ USD sao cho hiệu quả, nên dùng để bù lãi suất, sao cho nền kinh tế có lãi suất thấp hơn, việc bù lãi suất đó sẽ được thực hiện không phân biệt thành phần kinh tế, tập trung hỗ trợ bằng cách cho vay ưu đãi... Chiến lược, mục tiêu của gói kích cầu kinh tế đã có, song theo lãnh đạo các tổng công ty, tập đoàn, thành công hay không phụ thuộc vào quá trình triển khai thực hiện. Theo như công bố gần đây của Chính phủ, việc thực hiện gói giải p háp kích cầu trị giá 100 ngàn tỷ (tương đương với khoảng 25% dự toán tổng thu ngân sách năm 2009) sẽ được tài trợ qua ba nguồn chính: phát hành trái phiếu Chính phủ; miễn giảm thuế; và sử dụng quỹ dự trữ Nhà nước.  Tài trợ thông qua phát hành trái phiếu trong nước có thể chia thành vay nợ từ công chúng hoặc từ hệ thống các ngân hàng thương mại. Giả sử Chính phủ phát hành trái phiếu ra công chúng và dùng số tiền huy động được để tài trợ cho gói kích cầu. Trong trường hợp này cơ sở tiền tệ sẽ không đổi và không có tác động gì đến cung tiền lẫn sức ép lạm phát. Tuy nhiên, việc tài trợ này gặp phải những khó khăn nhất định. Thứ nhất, việc phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ gặp khó khăn khi mức lãi suất không còn hấp dẫn như trước, đồng thời lạm phát kỳ vọng có thể tăng trở lại khi Chính phủ phát đi tín hiệu kích cầu. Nguồn huy động được chắc chắn sẽ không lớn khi mức huy động vay nợ trong nước hiện nay của Chính phủ đã vào khoảng gần 50 ngàn tỷ đồng một năm. Thứ hai, việc tài trợ cho gói kích cầu này thông qua vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây sức ép xấu đến khu vực tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Huy động với lãi suất cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm trong tương lai, và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách Ngược lại, nếu Chính phủ vay nợ hệ thống ngân hàng thương mại sẽ gây sức ép đối với dự trữ của các ngân hàng này và các ngân hàng sẽ đòi hỏi trợ giúp về khả năng thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước. Nếu những đòi hỏi này được đáp ứng, cơ sở tiền tệ sẽ tăng và lạm phát sẽ quay trở lại. Nếu Ngân hàng Nhà nước không đáp ứng những đòi hỏi về tính thanh khoản này, các ngân hàng thương mại buộc phải giảm các nguồn tín dụng cho khu vực doanh nghiệp tư nhân và lao vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động như những gì đã diễn ra trong đầu năm nay. Do vậy, việc thực hiện gói kích cầu có thể không đạt được mục tiêu như mong đợi khi biện pháp tài trợ thông qua vay nợ trong nước được lựa chọn. Việc vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây khó khăn thêm cho các doanh nghiệp tư nhân và không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.
  8.  Tài trợ qua miễn, giảm, hoãn, chậm việc thu thuế để doanh nghiệp có nguồn đầu tư. Đây là một biện pháp có lợi và có thể giúp duy trì hoặc mở rộn g sản xuất cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp nay cũng có những nhược điểm nhất định. Thứ nhất, trong tình hình bội chi ngân sách như hiện nay (khoảng 5%/năm), việc miễn giảm thuế và chậm thu sẽ ảnh hưởng đến các khoản chi ngân sách khác và hạn chế tác động của việc kích cầu. Thứ hai, tổng nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay vào khoảng 100 ngàn tỷ đồng, do vậy lượng thuế mà các doanh nghiệp được hưởng miễn, giảm, hay chậm thu sẽ không nhiều. Ngoài ra, biện pháp tài trợ này còn đặc biệt gặp khó khăn trong thực thi. Việc lựa chọn doanh nghiệp nào được hưởng lợi từ biện pháp này là một thách thức, dễ gây ra sự bất đồng và thiếu niềm tin vào sự công tâm của các cơ quan đại diện thực thi chính sách của Chính phủ.  S ử dụng quỹ dự phòng để tài trợ cho gói kích cầu thì quyết toán ngân sách nhà nước các năm cho thấy nguồn quỹ dự phòng là quá nhỏ so với gói kích cầu.  Tài trợ thông qua quỹ dự trữ ngoại hối thì ngoại tệ sẽ được bán ra công chúng cho tới khi dự trữ giảm xuống ngưỡng an toàn. Việc tài trợ này cực kỳ rủi ro nếu công chúng tin rằng dự trữ ngoại hối đang cạn dần và có thể dẫn đến sự tháo chạy của tư bản nước ngoài và đầu cơ ngoại tệ. Cuối cùng sẽ là sự p há giá đồng nội tệ và sức ép lạm phát. Hiện nay, mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam khoảng 20 tỷ USD. Việc kich thích đầu tư và tiêu dùng thường kéo theo sự gia tăng mạnh của nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng… và với mức dự trữ ngoại hối như vậy, có lẽ chỉ là vừa đủ ngưỡng đảm bảo an toàn của hệ thống tỷ giá (đặc biệt về mặt tâm lý). Rõ ràng, việc sử dụng dự trữ ngoại hối tài trợ toàn bộ cho gói kích cầu vài tỷ USD là điều vừa không khả thi vừa không sáng suốt.  Tăng sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu thô cũng là một nguồn tài trợ quan trọng khác cho chi tiêu Chính phủ. Tổng nguồn thu từ dầu thô hàng năm trong năm các năm 2007-2008 là vào khoảng gần 70 ngàn tỷ đồng, chiếm hơn 20% tổng nguồn thu. Tuy nhiên, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến giá dầu thô giảm hơn 70% kể từ đỉnh cao 140 U SD/thùng xuống dưới 40USD/thùng, và chưa có dấu hiệu tăng trở lại trong thời gian tới. Điều này khiến cho việc duy trì tổng mức thu từ dầu theo kế hoạch trong năm 2009 giảm mạnh. Lấy một ước lượng sơ bộ và đơn giản là nguồn thu giảm khoảng 50%, thì đã tương đương 30 ngàn tỷ đồng.  In tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thì sẽ có hai trường hợp xảy ra. Một là Chính phủ có thể trực tiếp thông qua Ngân hàng Nhà nước in tiền để tài trợ cho chi tiêu. Biện pháp tài trợ này ngay lập tức sẽ dẫn đến tăng trưởng cơ sở tiền tệ và cung tiền.
  9. Hai là Chính phủ ban đầu có thể vay tiền của công chúng và hệ thống ngân hàng thương mại thông qua phát hành trái phiếu. Nhưng nếu sau đó N gân hàng Nhà nước can thiệp mua lại các khoản nợ này của chính phủ thông qua nghiệp vụ thị trường mở, hoặc nhằm đáp ứng sức ép thanh khoản gia tăng của hệ thống ngân hàng thương mại, thì một lượng tiền tương tự như khi in tiền trực tiếp cũng sẽ được bơm vào nền kinh tế. Trong cả hai trường hợp, cơ sở tiền tệ và cung tiền sẽ tăng, gây ra lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô trong tương lai. Việc tài trợ cho chi tiêu qua gói kích cầu thông qua N gân hàng Nhà nước còn có thể làm trầm trọng hơn những rủi ro kinh tế khi Ngân hàng Nhà nước theo đuổi chế độ tỷ giá gắn chặt với đồng USD như hiện nay. Như đã nói ở trên, kích thích đầu tư và tiêu dùng thường kéo theo sự gia tăng mạnh của nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng. Vì vậy, việc tài trợ cho gói giải pháp kích cầu thông qua Ngân hàng Nhà nước, một mặt làm tăng cung nội tệ, mặt khác làm tăng cầu ngoại tệ do nhu cầu nhập khẩu tăng. Khi đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ buộc phải can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ra ngoại tệ nhằm duy trì tỷ giá, gây sức ép về tính thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng thương mại, thâm thủng dự trữ ngoại hối, phá giá đồng nội tệ, và cuối cùng là lạm phát.  Tài trợ thông qua vay nợ nước ngoài thì theo báo cáo nợ nước n goài năm 2008 của Bộ Tài chính, tổng dư nợ nước ngoài tính đến hết năm 2007 đã vào khoảng 311 ngàn tỷ đồng (tương đương gần 30% GDP). Hơn nữa, khả năng vay nợ thêm nước ngoài trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn cầu cộng với việc tạm ngừn g cấp vốn ODA từ Nhật Bản là rất khó khăn. Tác động của việc tài trợ cho gói kích cầu thông qua biện pháp vay nợ nước ngoài, nếu có, sẽ phụ thuộc nhiều vào chủ trương theo đuổi chế độ tỷ giá của N gân hàng Nhà nước trong thời gian tới. Nếu Ngân hàng Nhà nước theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá quanh mức công bố như hiện nay, điều này có nghĩa Ngân hàng Nhà nước sẽ phải can thiệp mua vào lượng dư cung ngoại tệ do Chính phủ đã bơm vào nền kinh tế sau khi vay nước ngoài. Cơ sở tiền tệ và cung tiền cuối cùng sẽ tăng và gây ra lạm phát. Tuy nhiên, nếu Ngân hàng Nhà nước chủ động thả lỏng mức kiểm soát tỷ giá thì hậu quả của việc làm này sẽ là sự lên giá của đồng nội tệ và tác động xấu đến khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của hàng xuất khẩu Việt Nam.  Cuối cùng, Chính phủ có thể thông qua việc trì hoãn trả nợ tài trợ cho gói kích cầu. Đây là một trong những biện pháp quan trọng và thường xuyên được thực hiện ở các nền kinh tế chuyển đổi. Theo những tính toán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tổng nợ của Việt Nam tính đến cuối năm 2007 đã vào khoảng 50% GDP (trong đó nợ trong nước chiếm khoảng 2/5, nợ nước ngoài chiếm 3/5).
  10. Việc tích lũy thêm nợ làm trì hoãn những tác động xấu có thể có của các biện pháp tài trợ gói kích cầu. Tuy nhiên, nó sẽ tác động đến kỳ vọng của khu vực tư nhân về sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế. Các cá nhân và tổ chức kinh tế sẽ dự đoán về sự gia tăng của thuế và lạm phát, và làm xấu đi tình hình tài chính. Sau khi p hân tích các ưu nhược điểm của các nguồn tài trợ, có nhữn g kịch bản đã được đề xuất: Chính phủ có thể kết hợp các nguồn tài trợ nói trên để tài trợ cho gói kích cầu, với giả định Chính phủ tiếp tục duy trì cơ cấu các khoản thu - chi khác và mức thâm hụt ngân sách hàng năm như hiện nay, và tìm các nguồn khác để tài trợ cho gói kích cầu. Căn cứ trên các số liệu thực tế hoặc dự toán của năm 2008 đối với các nguồn tài trợ này, Chính phủ có thể tăng mỗi nguồn tài trợ này ở bốn mức khác nhau, tương ứng với bốn kịch bản sau (các kịch bản có cùng giả định nguồn thu từ dầu thô giảm một nửa tron g năm tới so với năm 2008). Kịch bản (1) (2) (3) (4) 1. Quy mô gói kích cầu (tỷ đồng) 17.000 50.000 75.000 100.000 1.1. M iễn giảm và chậm thu thuế thu 5.000 15.000 20.000 25.000 nhập doanh nghiệp 1.2. Tăng chi tiêu 12.000 35.000 55.000 75.000 2. Tài trợ 2.1. Dầu thô (thay đổi so với năm -32.800 -32.800 -32.800 -32.800 trước) 2.2. Sử dụng quỹ dự trữ 10.000 14.000 17.000 20.000 2.3 Qua Ngân hàng Nhà nước (in 10.000 10.000 15.000 20.000 tiền hoặc tương tự) 2.4. Phát hành trái phiếu (tăng so v ới 19.800 38.800 31.500 62.800 năm trước) 2.5. Vay nợ nước ngoài (tăng so với 10.000 20.000 25.000 30.000 năm trước) Gia tăng thâm hụt ngân sách (so 29.800 58.800 75.800 92.800 với 2008) Thâm hụt ngân sách (% GDP) 7,03 8,99 10,15 11,31
  11. Với kịch bản 1, để huy động được khoảng 1 tỷ USD trong một năm, Chính phủ cần tăng vay nợ trong nước lên tương đương 140% so với lượng vay trong năm 2008. Đồn g thời, tất cả các nguồn khác đều phải nỗ lực huy động nhiều hơn năm trước. Trong trường hợp đó, thì thâm hụt ngân sách cũng tăng khoảng gấp rưỡi, lên tới khoảng 100.000 tỷ đồng, và bằng 7% GDP. Với kịch bản 2, 100.000 tỷ được huy động trong hai năm (trung bình 50.000 tỷ một năm). Theo cách lựa trọn tài trợ như trong bảng trên, thâm hụt ngân sách lên tới khoảng 9% GDP. Đây là những mức thâm hụt rất lớn và trầm trọng. Với kịch bản 3, 75.000 tỷ được huy động trong mỗi năm, thì phải phát hành trái phiếu bằng 160% năm 2008, đồng thời tăng vay nợ thêm 1.5 tỷ USD so với năm 2008, song song với việc miễn giảm thuế 20.000 tỷ, giảm dự trữ khoảng 1 tỷ USD và tài trợ bằng in tiền cũng một khoảng gần như vậy. Đây là một gói giải pháp khá mạo hiểm, và thâm hụt ngân sách có thể lên tới hơn 10% GDP, một có số đáng báo động về mất cân đối vĩ mô. Với kịch bản 4, chúng ta giả định quy mô gói kích cầu lên tới 100.000 tỷ đồng trong một năm, trong đó 25% là thông qua miễn giảm thuế, và 75% là tăng chi tiêu. Thôn g qua việc sử dụng quỹ dự trữ 20.000 tỷ và in thêm một lượng tiền tương tự, thì mức thâm hụt ngân sách ước tính vẫn tới hơn 11,3% GDP, và gấp 2,5 lần mức thâm hụt hiện nay xét về giá trị (150.000 tỷ đồng). Để tài trợ cho khoản thâm hụt khổng lồ này, có thể cần tăng vay nợ nước ngoài gấp 3 lần và nợ trong nước hơn gấp đôi so với năm 2008. Nói tóm lại, việc huy động thêm khoảng 1 tỷ USD/năm trong hai năm tới là khả thi. Để đạt được điều này, Chính phủ phải chấp nhận mức thâm hụt lên tới gần 7% GDP. Nếu Chính phủ muốn huy động nhiều hơn chỉ tiêu trên, mức thâm hụt sẽ nhanh chóng đạt và vượt mức 10% GDP. Đây là mức có thể gây những mất cân đối nghiêm trọng đối với nền kinh tế mà hậu quả chưa lường hết được về mặt vĩ mô. Đồng thời, trong thời gian ngắn nhất phải làm cho các yếu tố về năng suất lao động, công nghệ - tức là các yếu tố tăng chất lượng của tăng trưởng phải vượt trội. Nói như vậy để thấy rõ chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây giờ việc thay đổi cơ cấu đầu tư nhằm nhanh chóng cải thiện hiệu quả sản xuất, kinh doanh thì may ra từ năm 2010 trở đi mới có thể có tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững như mong muốn. Tăng trưởng kinh tế 6,5% đề ra cho năm 2009 cũng là con số khá cao, đạt được nó là không đơn giản. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, tăng trưởng kinh tế cao là nguyện vọng cháy bỏng của mỗi người dân, là con đường sống của cả dân tộc. Nếu ví cuộc khủng hoảng tài chính như cơn bão thì kinh nghiệm cho hay cơn bão này đổ bộ vào nước ta chậm, nhưng ở lại lâu và sẽ tàn phá nặng nề. Do đó, cần có hành động ngay để ngăn chặn bớt sự tàn phá của cơn bão tài chính đang diễn ra, giảm thiểu tác động xấu của nó. Tăng trưởng phải đi đôi với bền vữn g, tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển văn hóa, thực hành dân chủ, phát triển con người; phát triển kinh tế của thời kỳ này phải tạo tiền đề, nền tảng cho phát nhanh và bền vững của giai đoạn tiếp theo
  12. Số tiền kích cầu này nên được cho vay một cách cân nhắc để trở thành “mồi” hợp lý trong việc kích thích kinh tế. CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỞNG VÀ GIẢI PHÁP Việc kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một giải pháp có thể nói là hữu hiệu nhất trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi quốc gia. Để thực hiện chủ trương kích cầu có hiệu quả thì phải xử lý ít nhất là ba vấn đề: tiền đâu; đầu tư vào đâu và đầu tư thế nào. Vấn đề đầu đã được nêu trên đây, vậy cần phải đầu tư mạnh ở lĩnh vực nào để “kích cầu” có hiệu quả. 3.1 Định hướng: M ột chính sách đúng cần đưa ra được một mô hình phát triển hài hòa, bền vững cho đất nước và được sự đồng thuận của toàn dân. Nếu không làm được chuyện này, mọi biện pháp đều trong tình trạng bị động, chữa ngọn lủa lớn, bằng một thùng nước nhỏ, hiệu quả thật mỏng manh. 1-Phải có một cái nhìn toàn diện về chính sách phát triển kinh tế quốc gia . 2- Việc kích cầu phải nằm trong chính sách đó . 3-Định ra được đối tượng được hưởng sự hỗ trợ này 4-Từ đó các chuyên gia có thể tính được nhu cầu cần thiết để thực hiện hiệu quả chính sách này . 5- Sau đó xác định từ những nguồn vốn nào, bao nhiêu. 3.2 Giải pháp: Chuyển từ mục tiêu chống lạm phát sang chống suy giảm kinh tế trong thời gian tới điều hành vĩ mô của chính phủ phải nhanh nhạy, linh hoạt, bám sát thị trường, son g bản thân DN cần tăng cường tính chủ động, liên kết chặt chẽ với nhau hơn để vượt khó.  Về đối tượng kích cầu: Đây là vấn đề khó, vì nếu chúng ta xác định đúng và hỗ trợ đúng nhữn g đối tượng cần hỗ trợ bằng nhữn g biện pháp cần thiết thì kích cầu sẽ đạt hiệu quả cao.. Trước hết ưu tiên hỗ trợ chủ yếu cho khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
  13. Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất trong nước tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nơi sử dụng nhiều lao động. Bởi định hướng ưu tiên là những dự án thu hút nhiều đầu vào, tạo nhiều việc làm. Thông thường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tốt yêu cầu này. Việc kích vào nhóm doanh nghiệp này không phải là “làm từ thiện” cho những doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hơn. Điều quan trọng là nó nhằm đúng mục tiêu đại cục của công cuộc kích cầu. Nên đầu tư bằng cách phát triển các doanh nghiệp, tạo ra môi trường kinh doanh hiệu quả và có tính cạnh tranh lành mạnh. Việc đầu tư p hát triển doanh nghiệp có thể thực hiện bằng cách cho vay với lãi suất ưu đãi, mua cổ phần , phát triển các ngành kinh tế có chức năng là chất dẫn kích thích phát triển các ngành kinh tế khác. Bằng cách này Nhà nước có thể thu hồi lại được vốn và tiếp tục tái đầu tư vào các lĩnh vực khác.  Về tiêu chí của các dự án: Số tiền “mồi” có thể là ít, cho nên cần tìm cái gì cần “mồi”. Chọn dự án nào đã có đủ điều kiện nhất để đầu tư. Danh sách đưa ra thì nhiều nhưng p hải có tiêu chí cụ thể để lựa chọn. Vì vậy trong thời gian ngắn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần sớm xây dựng những tiêu chí để có cơ sở cho các địa phương, ban ngành có căn cứ để lựa chọn. Thứ nhất là ưu tiên các dự án có “đầu ra” chứ không phải nhữn g dự án chứng minh được có đủ điều kiện “đầu vào”. Đầu ra càng hiện thực bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Nhóm thứ hai là những lĩnh vực cũng tạo sức mua nhưng sản phẩm rất cơ bản và lâu dài, đó là những công trình, dự án phát huy tác dụng, hiệu quả trong tương lai xa hơn, tạo ra cơ cấu kinh tế tốt hơn, làm nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam có thể xem xét tăng chi tiêu của Chính phủ lên. Trong điều kiện hạ tầng giao thông của ta còn kém, nguồn vốn đổ vào đây có thể là một giải pháp tốt. Tuy nhiên không thể kích cầu tràn lan mà nên tập trung vào những công trình hiệu quả, có thể sinh ra tiền sau khi đi vào sử dụng như kích cầu đối với mộ số dự án: dự án nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng, Nội Bài; luồng cho tàu vào sông Hậu tại khu vực ĐBSCL; nâng cấp, thay tà vẹt của một số dự án đường sắt; nâng cấp một số dự án quốc lộ như: quốc lộ 70, quốc lộ 6, quốc lộ 279…; và một phần nhỏ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng gặp khó khăn. Những dự án DN xét thấy hiệu quả cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện, áp dụng cơ chế chỉ định thầu, các tập đoàn, tổng công ty có thể lập danh sách trình Thủ tướng ủy quyền cho lãnh đạo thực hiện. Đồng thời giúp tháo gỡ nhanh các nút thắt tăng trưởng gây ách tắc lâu nay – ví dụ như cảng biển, cầu đường, năng lượng..., giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp thông thoáng, tăng tốc vận hành, tiết kiệm chi phí. Với nhữn g dự án “trọng điểm” bị “ách tắc”, cần kích cầu để hoàn thành sớm. Trong số những dự án này, có thể có những dự án đang “có vấn đề” cần xử lý, song trước mắt cần ưu tiên kích cầu để giải tỏa, “vấn đề” tạm gác lại xử lý sau.
  14. M ột trong những giải pháp cần thực thi song son g với việc tiếp vốn đó là giải pháp mang tính chất hành chính. Giải pháp này mang lại hiệu quả quá lớn mà không tốn tiền. Chúng ta đã có kinh nghiệm để rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính ở một số khâu có thể, cho phép làm song song nhiều thủ tục trong một dự án. Để làm việc này phải tổ chức những nhóm công tác, có đủ thẩm quyền quyết định tại chỗ đối với những vướng mắc do các thủ tục hành chính đang quá rườm rà, hoặc vừa rườm rà nhưng thiếu cụ thể gây ra. Để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, cần khẩn trương triển khai chương trình nhà ở cho người thu nhập thấp, bao gồm cả phát triển quỹ nhà ở và cho vay để mua nhà ở, thị trừơng này là thị trường nền cho các thị trường khác. Cần phải tạo ra nhiều việc làm thì kích cầu mới có hiệu quả, ví dụ như như các công trình đóng tàu, xây lắp điện, xây dựng ... Đầu tư vào khu vực nông thôn như các dự án hạ tầng giao thông, đô thị các dự án phát triển nông nghiệp. Việc thực hiện giãn, giảm thuế cho các doanh nghiệp cũng là vấn đề cần làm. Tổng cục thuế phải có số liệu tổng quan về các loại hình doanh nghiệp và đưa ra kiến nghị về việc giãn, giảm cụ thể cho từng loại đối tượng. Sức cầu của thị trường hiện đang giảm mạnh; đời sống của người lao động gặp khó khăn. Những doanh nghiệp không được “kích cầu” hỗ trợ cũng đang gay go. Làm sao việc giảm thuế phải nhằm vào đúng chỗ và đủ “độ” để tạo ra sự lan tỏa công bằng trong phân phối lợi ích. Khi đó, hiệu quả kích cầu sẽ tăng. Còn việc cho vay để đầu tư máy móc, thiết bị vào thời điểm này, đặc biệt là với những công nghệ cao hơn so với những công nghệ sản xuất còn thô sơ và gây ô nhiễm tại Việt Nam là điều cần thiết. Và không lúc nào thích hợp hơn lúc này khi mà kinh tế thế giới bước vào tình trạng suy thoái và chúng ta có thể đầu tư vào công nghệ cao với giá rẻ hơn so với trước đây. Kích thích tiêu dùng và sản xuất nội địa, tránh nhập khẩu thiết bị máy móc, đồ dùng xa xỉ để tiết kiệm ngoại tệ cho quốc gia. Xử lý vấn đề này rất không dễ dàng. Về cơ bản, đây là bài toán thị trường, phải được giải chủ yếu theo nguyên lý thị trường. M ột khi sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu, ít có khả năng cải thiện nhanh thì sứ mệnh “giảm nhập siêu” một phần đáng kể được trao cho các công cụ hành chính - kỹ thuật, ví dụ hàng rào thuế quan, hàng rào kỹ thuật hay các đội chống buôn lậu. Song sử dụng có hiệu quả những công cụ này là không dễ, khó có hiệu quả cao và cũng cần thời gian để chuẩn bị cơ chế, lực lượng. Khôn g ráo riết chuẩn bị để triển khai thì nguy cơ và hậu quả sẽ càng nặng nề. Ngoài nhữn g thị trường chiếm tỉ trọng lớn về xuất khẩu, chúng ta nên tìm nhữn g thị trường khác nhằm cải thiện cho việc giảm sút của xuất khẩu ròng khi các nước cắt giảm chi tiêu. Cần có quan hệ ngoại giao tốt hơn nữa của nhà nước sang các thị trường khác. điều đó làm mở rông thị trương tiêu thụ hàng hoá, làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Ở nước ta, hoạt động xuất khẩu gắn nhiều với nông dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ). Kích vào đây một mặt để giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền kinh tế, giảm nguy cơ thâm hụt thương mại đang có khả năng tăng lên; mặt khác, giúp đông đảo người
  15. lao động thuộc nhóm thu nhập thấp, dễ bị tổn thương – và thực tế họ đang bị tổn thương nặng nề sau cơn lạm phát kéo dài và tác động suy thoái của kinh tế thế giới – duy trì việc làm, thu nhập và đời sống, đồng thời, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Sau bài học kinh nghiệm về chống lạm phát, điều hành của Chính phủ (ít dùng hành chính hơn, kịp thời thay đổi mục tiêu ưu tiên, chọn giải pháp bài bản hơn, phối hợp hành động tốt hơn...) đã trở nên linh hoạt và bài bản hơn trong phản ứng chính sách Tư duy chính sách cũng cần mềm hơn, nương theo hoàn cảnh để tính đến cuộc chơi dài hơn vì nó giúp chúng ta không bị rối loạn, bất ổn. Và điều quan trọng trong tăng trưởng là giữ được việc làm cho người lao động. Đó mới là điều quan trọng, là gốc cho ổn định xã hội.  Về lãi suất Chính phủ sẽ cần tiếp tục chỉ đạo theo hướng giảm mạnh lãi suất hơn nữa, nhưn g phù hợp và theo nguyên tắc thị trường, đồng thời đề nghị các ngân hàng phải chia sẻ với xã hội, coi đây là hỗ trợ quan trọng, đặc biệt là với DN nhỏ và vừa. Cần nhanh chóng giảm mạnh lãi suất và dự trữ bắt buộc, kích thích cho vay tiêu dùng để tạo đầu ra cho các doanh nghiệp. Giảm lãi suất nhưn g cần đảm bảo ổn định lãi suất. Hiện các doanh nghiệp vay vốn không khó nhưng lại s ợ lãi suất lại biến động như hồi đầu năm. Các ngân hàng thương mại nhà nước cần nghiên cứu phương án cho các đối tượng vay với lãi suất ưu đãi khoảng 4 - 6%/năm, không phân biệt thành phần kinh tế, chú trọng những lĩnh vực được đánh giá nhiều tiềm năng như điện, cảng, giao thông, nhà ở xã hội… Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước VN (SBV) điều hành chính sách tiền tệ khá linh hoạt, đặc biệt là trong quý IV/2008, lãi suất đã giảm nhanh, được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và khả năng vay của người dân. Chúng ta đã thấy những nhóm giải pháp chống suy thoái nền kinh tế của các nước trên thế giới là cắt giảm lãi suất liên tục thậm chí như Fed giảm lãi suất xuống còn từ 0%- 0.25% mức thấp kỷ lục chưa từng có trong 15 năm qua. Năm 2009, chính sách lãi suất Việt Nam cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng giảm sâu hơn nữa. Cụ thể, bên cạnh việc giảm dự trữ bắt buộc, SBV cần giảm lãi suất cơ bản xuống 4% - 6%/năm. Khi đó, vấn đề có thể gây lo lắng là lãi suất tiết kiệm theo đó xuống sâu hơn, người dân sẽ không mặn mà gửi tiết kiệm thì các ngân hàng trong nước lấy đâu nguồn vốn để cung ứng cho các thành phần kinh tế? Trên thực tế, vấn đề trên là không đáng ngại. Năm 2007, cung tiền cho nền kinh tế tăng 43%, dư nợ tín dụng tăng 54%; song, năm 2008, cung tiền chỉ tăng 16,3%, dư nợ tín dụng tăng 21%. Như vậy, SBV có đủ điều kiện để mở rộng việc cung ứn g vốn cho nền kinh tế. Để các ngân hàng không phụ thuộc nguồn vốn huy động tiết kiệm, SBV cần mạnh tay "bơm" tiền cho hệ thống ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu các loại
  16. giấy tờ có giá... với lãi suất thấp để các ngân hàng có điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vay với lãi suất tối đa 7% - 9%/năm. Làm được như vậy, vấn đề vốn của các ngân hàng sẽ được giải quyết. Nới lỏng đầu ra tín dụng Việc đưa ra cơ chế lãi suất thỏa thuận là hướng đi đúng nhưng cần có lộ trình. Hiện nay, lãi suất trần cho vay đang khiến các ngân hàng thiếu linh hoạt khi triển khai các dịch vụ như cho vay tiêu dùng, hay hướng đến các đối tượng là hộ kinh doanh cá thể, hộ nông dân vùng sâu, vùng xa... Vì hệ thống ngân hàng chưa phủ kín “sóng” nên một bộ phận khách hàng phải tiếp cận tín dụng đen với lãi suất cao (3% - 5%/tháng). Trong khi đó, để thực hiện và tiếp cận dịch vụ, đối tượng khách hàng nói trên, chi p hí sẽ rất lớn nên các ngân hàng ngại đầu tư, dẫn đến bên có nhu cầu vay tiếp tục gặp khó khăn về vốn. Còn nếu SBV đột ngột bỏ cơ chế lãi suất trần cho vay, thị trường tiền tệ sẽ có diễn biến tiêu cực. Các ngân hàng nhỏ sẽ đua nhau tăng lãi suất huy động vốn, làm tái diễn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, gây rối thị trường. Từ đó, lãi suất cho vay sẽ bị đẩy lên cao khiến cả ngân hàng lẫn người vay đều đối mặt với rủi ro. Do đó, SBV nên bật đèn xanh cho các ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay tiêu dùng và cho vay cá nhân không quá 200% so với lãi suất cơ bản đối với một số đối tượng kể trên hoặc cho phép các ngân hàng thu phí vay vốn theo quy định của SBV. Chính phủ đã họp và quyết định sẽ sử dụng nguồn vốn 1 tỷ USD để kích cầu trong trường hợp cấp bách, từ nguồn dự trữ. Nguồn vốn tương ứn g với hơn 17.000 tỷ đồng này, theo kết luận của Chính phủ, sẽ dùng để hỗ trợ lãi suất trong năm 2009 qua hệ thống các ngân hàng. Về mức hỗ trợ, nên tính toán sao cho hợp lý. Việc triển khai cho vay và hỗ trợ lãi suất ưu đãi, phải được thực hiện công khai, minh bạch, có tiêu chí cụ thể thông qua sự tham gia của hệ thống ngân hàng. Đối với gói kích cầu lần này Chính phủ sẽ hướng vào một số lĩnh vực, nhất là nhóm giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, như nhà ở cho công nhân ở các khu công nghiệp, các khu dân cư, nhà ở xã hội, cho người nghèo... Có thể Chính phủ cho vay với lãi suất rất thấp để các doanh nghiệp đầu tư; hoặc cho một số cơ sở hạ tầng cấp thiết vay ưu đãi. Doanh nghiệp sẽ được vay tiền ưu đãi để thực hiện những dự án đó. M ột khi các ngân hàng thương mại có điều kiện giảm lãi suất cho vay thì khả năng tiếp cận vốn vay của nhiều đối tượng thuận lợi hơn. Tiền được bơm qua hệ thống N gân hàng Thương mại nên áp lực nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp cũng hiệu quả hơn so với việc bơm trực tiếp cho doanh nghiệp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2