Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
VAI TRÒ CỦA BẢNG CÂU HỎI BERLIN<br />
TRONG TẦM SOÁT NGƯNG THỞ LÚC NGỦ TẮC NGHẼN<br />
Trần Minh Huy*, Lê Thị Tuyết Lan**, Nguyễn Xuân Bích Huyên***<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: Bảng câu hỏi (BCH) Berlin được sử dụng rộng rải để đánh giá nguy cơ mắc ngưng thở lúc ngủ tắc<br />
nghẽn (NTLNTN) ở các nước nói tiếng Anh.<br />
Mục tiêu: Xác định vai trò của BCH Berlin phiên bản tiếng Việt trong tầm soát NTLNTN trên các đối<br />
tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam, so sánh với tiêu chuẩn vàng là đa ký giấc ngủ (ĐKGN).<br />
Phương pháp: BCH Berlin được dịch sang tiếng Việt và khảo sát trên 123 đối tượng có triệu chứng rối loạn<br />
giấc ngủ. Đối tượng cho kết quả dương tính với ít nhất 2 phần của BCH Berlin sẽ được xếp vào nhóm nguy cơ cao<br />
mắc NTLNTN. Chỉ số ngưng thở-giảm thở (Apnea Hyponea Index (AHI)) được xác định bằng ĐKGN qua đêm.<br />
Kết quả: Giá trị nội tại của BCH được đánh giá bằng hệ số Cronbach alpha, là 0,81 cho phần 1 và 0,66 cho phần<br />
2. Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin lần lượt là 84,29% và 66,04% tương ứng với ngưỡng chẩn đoán AHI ≥<br />
5; 88,24% và 55,56% với AHI >15; 90,63% và 47,52% với AHI> 30. Với ngưỡng chẩn đoán AHI=5, BCH Berlin có<br />
tỉ số khả dĩ dương là 2,48, tỉ số khả dĩ âm là 0,24. Chỉ có các phần liên quan tới triệu chứng ngáy, ngáy gây ảnh<br />
hưởng người ngủ chung, ngưng thở lúc ngủ và tăng huyết áp/béo phì có mối liên quan có ý nghĩa với AHI.<br />
Kết luận: Mặc dù với độ nhạy khá cao, tuy nhiên BCH Berlin chưa thật sự là công cụ tầm soát hiệu quả trên<br />
các đối tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam do sự hạn chế về độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ dương và tỉ số khả dĩ âm.<br />
Từ khóa: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn, bảng câu hỏi Berlin<br />
<br />
ABSTRACT<br />
ROLE OF THE BERLIN QUESTIONNAIRE AS A SCREENING TOOL<br />
FOR OBSTRUCTIVE SLEEP APNEA<br />
Tran Minh Huy, Le Thi Tuyet Lan, Nguyen Xuan Bich Huyen<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 123 - 129<br />
Background: Berlin questionnaire (BQ) is extensively used for identifying patients at risk for obstructive<br />
sleep apnea (OSA) in English speaking countries.<br />
Aim: To determine the validity of the Vietnamese version of the BQ in screening for OSA in sleep-disorder<br />
patients compared with polysomnography (PSG) as the gold standard.<br />
Methods: The Berlin questionnaire was translated into Vietnamese and administered to 123 patients with<br />
symptoms of sleep disorder. Patients with positive responses in any two of three symptom categories of the BQ were<br />
considered having a high risk at for OSA. The apnea and hypopnea index (AHI) was obtained by overnight PSG.<br />
Results: Internal consistency reliability, as evaluated with Cronbach’s alpha was 0.81 and 0.66 for category<br />
1, and 2 respectively. The sensitivity and specificity of BQ were respectively 84.3 and 66.0% for AHI≥5, 88.2 and<br />
55.6% for AHI>15, and 90.6 and 47.5% for AHI>30. At the cut-off of AHI=5, BQ performed with a 2.48 positive<br />
likelihood ratio and a 0.24 negative likelihood ratio. Only the items related to snoring, annoying snoring,<br />
* Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM<br />
**Bộ môn Sinh Lý học – khoa Y – Đại học Y Dược<br />
*** Trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng (CHAC), TPHCM.<br />
Tác giả liên lạc: BS Trần Minh Huy, ĐT: 0914577333, Email: t.minhhuy@gmail.com<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa I<br />
<br />
123<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
witnessed apnea and hypertension/obesity were significantly associated with AHI.<br />
Conclusions: Although BQ displays a moderately high level of sensitivity, it is not an appropriate screening<br />
tool for OSA in sleep-disorder patients because of its limited specificity and likelihood ratios.<br />
Keyword: Obstructive Sleep Apnea, Berlin Questionnaire<br />
Berlin trong tầm soát ngưng thở lúc ngủ tắc<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
nghẽn trên các đối tượng rối loạn giấc ngủ người<br />
Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn (NTLNTN)<br />
Việt Nam; (ii) xác định mối liên hệ giữa các<br />
đang ngày càng trở thành vấn đề sức khỏe<br />
thành phần của BCH Berlin với chỉ số ngưng thở<br />
quan trọng trong vài thập niên gần đây với tỉ<br />
giảm thở (Apnea-Hypopnea Index (AHI)).<br />
lệ hiện mắc trong dân số chung là 4% ở nam<br />
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU<br />
và 2% ở nữ (1993)(14). NTLNTN đã được chứng<br />
minh là một nguy cơ độc lập của tăng huyết<br />
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu<br />
áp (THA)(5), bệnh mạch vành, suy tim, rối loạn<br />
Chúng tôi chọn thiết kế NC cắt ngang mô tả.<br />
nhịp(11), đột quỵ(4), rối loạn dung nạp glucose<br />
Đối tượng NC là các bệnh nhân có đến khám tại<br />
và đái tháo đường týp 2(7). Ngoài ra, NTLNTN<br />
phòng khám rối loạn giấc ngủ trung tâm chăm<br />
còn làm giảm chức năng nhận thức của thần<br />
sóc sức khỏe cộng đồng (CHAC) của viện<br />
kinh, tăng nguy cơ xảy ra tai nạn giao thôngnghiên cứu và phát triển sức khỏe cộng đồng<br />
lao động, giảm chất lượng cuộc sống(13).<br />
TPHCM từ 07/201101/2012, thỏa các yêu cầu<br />
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán NTLNTN là<br />
khảo sát đa ký giấc ngủ (ĐKGN). Tuy nhiên với<br />
sự hạn chế về điều kiện trang thiết bị, nhân lực<br />
và chi phí thực hiện, ĐKGN không thể áp dụng<br />
để chẩn đoán rộng rãi trong cộng đồng. Từ thực<br />
tiễn đó, các bảng câu hỏi tầm soát đã ra đời với<br />
ưu điểm là một công cụ tầm soát nhanh, thuận<br />
tiện, tiết kiệm chi phí đặc biệt trong lĩnh vực<br />
thực hành y khoa chăm sóc sức khỏe ban đầu.<br />
Bảng câu hỏi (BCH) Berlin ra đời vào tháng<br />
4/1996 tại hội thảo chăm sóc giấc ngủ ban đầu ở<br />
Berlin, là một trong những BCH được chấp nhận<br />
nhiều nhất hiện nay. Trên thế giới đã có các công<br />
trình nghiên cứu (NC) về giá trị của BCH Berlin<br />
trong việc tầm soát NTLNTN. Trong các NC trên<br />
đối tượng không có tiền sử rối loạn giấc ngủ,<br />
BCH Berlin có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đối<br />
cao: 85,5%-86% cho độ nhạy, 77-95,2% cho độ<br />
đặc hiệu(8,12). Tuy nhiên trong 2 NC trên nhóm<br />
dân số có tiền sử rối loạn giấc ngủ, BCH Berlin<br />
có độ nhạy, độ đặc hiệu không cao(1,2).<br />
Hiện tại chưa có công trình NC về giá trị của<br />
BCH Berlin trong tầm soát NTLNTN trên các đối<br />
tượng bênh nhân Việt Nam. Để góp phần làm rõ<br />
vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với<br />
các mục tiêu sau: (i) xác định vai trò của BCH<br />
<br />
124<br />
<br />
sau: (i) đối tượng là người Việt Nam từ 18 tuổi<br />
trở lên, (ii) đồng ý tham gia NC (trả lời BCH<br />
Berlin và đo đa ký giấc ngủ (ĐKGN)), (iii) không<br />
có tiền căn chẩn đoán và điều trị NTLNTN. Tiêu<br />
chuẩn loại trừ là: (i) không hoàn thành BCH NC,<br />
(ii) có triệu chứng viêm đường hô hấp trên trong<br />
vòng 1 tuần vừa qua.<br />
Để tính cỡ mẫu cho NC, chúng tôi dựa vào<br />
kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin<br />
theo NC của Sharma N tương ứng là 85,5% và<br />
95,2%(12), tính được số ca bệnh cần thiết và số ca<br />
không bệnh cần thiết cho NC lần lượt là 55 và 22.<br />
Chúng tôi chọn cỡ mẫu 123, trong đó số ca bệnh<br />
là 70, số ca không bệnh là 53.<br />
<br />
Phương pháp tiến hành<br />
Vào đêm thực hiện ĐKGN, các đối tượng<br />
được phỏng vấn trực tiếp bằng BCH Berlin,<br />
được đo huyết áp, chỉ số vòng cổ, vòng bụng,<br />
cân nặng và chiều cao. Sau đó sẽ tiến hành đo<br />
ĐKGN.<br />
BCH Berlin gồm 10 câu hỏi được chia thành<br />
3 phần. Phần 1 gồm 6 câu hỏi: 1 câu hỏi giới<br />
thiệu (tuổi, giới, cân nặng, chiều cao) và 5 câu hỏi<br />
liên quan tới ngáy và cơn ngưng thở lúc ngủ<br />
được chứng kiến. Phần 2 liên quan đến triệu<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa I<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
chứng buồn ngủ ban ngày quá mức (3 câu hỏi và<br />
1 câu hỏi phụ về tần suất của triệu chứng buồn<br />
ngủ khi điều khiển phương tiện giao thông).<br />
Phần 3 liên quan đến THA/béo phì (1 câu hỏi).<br />
Mỗi phần được tính điểm riêng. Nếu cho kết quả<br />
dương tính với ít nhất 2 phần, đối tượng sẽ được<br />
xếp vào nhóm nguy cơ cao, ngược lại được xếp<br />
vào nhóm nguy cơ thấp mắc NTLNTN. BCH<br />
Berlin được hiệu chỉnh ở phần 3, béo phì cho<br />
người Việt Nam được xác định khi chỉ số khối cơ<br />
thể (BMI) ≥ 27,5 Kg/m2 (Phụ lục 1).<br />
<br />
NTLNTN của BCH Berlin. Tỉ số khả dĩ dương<br />
>10: khả năng mắc bệnh cao, 5-10: khả năng mắc<br />
bệnh trung bình, 2-5: khả năng mắc bệnh thấp,<br />
0,9: sự tương quan rất<br />
tốt. Dùng tỉ số khả dĩ (Likelihood Ratio) để ước<br />
tính trực tiếp sự thay đổi khả năng mắc<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa I<br />
<br />
Đặc điểm dân số nghiên cứu<br />
NC bao gồm 123 đối tượng, tuổi trung bình<br />
là 49,0 ± 13,3 tuổi, giới nam chiếm 71,7% (n = 87).<br />
Theo kết quả ĐKGN, có 70 đối tượng mắc<br />
NTLNT (AHÍ ≥ 5 lần/giờ), 53 đối tượng không<br />
mắc NTLNTN (AHÍ < 5 lần/giờ). Nhóm mắc<br />
NTLNTN có độ tuổi trung bình là 51,3 ± 12,2,<br />
đỉnh tuổi là 45-64 tuổi, có tỉ lệ giới nam cao hơn<br />
nhóm không mắc NTLNTN (P < 0,05). Nhóm<br />
NTLNTN có BMI cao hơn có ý nghĩa so với<br />
nhóm không mắc NTLNTN (P < 0,05). Về các<br />
triệu chứng lâm sàng, trừ triệu chứng buồn ngủ<br />
ban ngày quá mức, các triệu chứng khác: ngáy,<br />
ngưng thở lúc ngủ, THA, béo phì đều cao hơn có<br />
ý nghĩa so với nhóm không mắc NTLNTN (p <<br />
0,05) (bảng 1).<br />
<br />
Giá trị của bảng câu hỏi Berlin trong chẩn<br />
đoán NTLNTN<br />
Chúng tôi ghi nhận sự tương đồng kết quả<br />
của các câu hỏi trong phần 1 là tốt với giá trị<br />
Cronbach α là 0,81, tuy nhiên sự tương đồng kết<br />
quả của các câu hỏi trong phần 2 là thấp với giá<br />
trị Cronbach α là 0,65.<br />
Theo BCH Berlin, trong 123 đối tượng, có 77<br />
đối tượng (62,6%) được xếp vào nhóm có nguy<br />
cơ cao mắc NTLNTN, có 46 đối tượng (37,4%)<br />
được xếp vào nhóm nguy cơ thấp mắc NTLNTN<br />
(Bảng 2). Tỉ lệ đồng thuận giữa BCH Berlin và<br />
AHI là 76,4% (n=94).<br />
<br />
125<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của 2 nhóm mắc và<br />
không mắc NTLNTN<br />
Biến số<br />
Tuổi<br />
Giới nam ,% (n)<br />
Nam(cm)<br />
Nữ (cm)<br />
<br />
NTLNTN<br />
51,3± 12,2<br />
81,4(57)*<br />
Chu vi vòng cổ<br />
40,1 ± 2,5*<br />
35,1 ± 3,2<br />
<br />
Không NTLNTN<br />
46,1±14,2<br />
56,6 (30)<br />
<br />
Nam (cm)<br />
Nữ (cm)<br />
<br />
Chu vi vòng bụng<br />
96,1 ± 7,1*<br />
89,8 ± 7,3<br />
<br />
Nam<br />
Nữ<br />
Ngáy (%)<br />
NTLN (%)<br />
BNBN (%)<br />
THA (%)<br />
Béo phì (%)<br />
AHI (lần/giờ)<br />
<br />
BMI (Kg/m )<br />
25,7 ±3,0*<br />
26,2 ± 3,6*<br />
98,6*<br />
58,6*<br />
47,1<br />
68,6*<br />
25,7*<br />
33,6±24,4<br />
<br />
37,7±2,7<br />
34,1±1,5<br />
87,3±6,9<br />
85,3±6,6<br />
<br />
2<br />
<br />
23,4±2,8<br />
23,1±2,2<br />
73,6<br />
9,4<br />
45,3<br />
26,4<br />
3,8<br />
1,1±1,3<br />
<br />
NTLNTN: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn, NTLN:<br />
Ngưng thở lúc ngủ, BNBN: Buồn ngủ ban ngày, BMI:<br />
Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể), AHI: ApneaHypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).<br />
*: khác biệt có ý nghĩa thống kê với P 15,>30. Tuy nhiên, độ đặc hiệu của BCH Berlin<br />
không cao: 66,0%, 55,6%, 47,5% tương ứng cho<br />
các ngưỡng chẩn đoán AHI ≥ 5,>15,>30 (Bảng 3).<br />
Bảng 2. Sự tương quan giữa kết quả bảng câu hỏi<br />
Berlin và AHI<br />
AHI<br />
<br />
Nguy cơ cao NTLNTN<br />
Số BN (Tỉ lệ %)<br />
<br />
30<br />
Tổng<br />
<br />
18(23,4)<br />
14 (18,2)<br />
16 (20,8)<br />
29(37,6)<br />
77(100)<br />
<br />
Nguy cơ thấp NTLNTN<br />
Số BN (Tỉ lệ %)<br />
35(76,1)<br />
5(10,9)<br />
3(6,5)<br />
3(6,5)<br />
46(100)<br />
<br />
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở),<br />
NTLNTN: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn.<br />
<br />
Bảng 3. Giá trị của bảng câu hỏi Berlin với từng<br />
ngưỡng chẩn đoán<br />
BCH Berlin<br />
Độ nhạy (%)<br />
Độ đặc hiệu (%)<br />
<br />
126<br />
<br />
AHI≥5<br />
84,3<br />
66,0<br />
<br />
AHI>15<br />
88,2<br />
55,6<br />
<br />
AHI>30<br />
90,6<br />
47,5<br />
<br />
BCH Berlin<br />
Tỉ số khả dĩ dương<br />
Tỉ số khả dĩ âm<br />
<br />
AHI≥5<br />
2,48<br />
0,24<br />
<br />
AHI>15<br />
1,99<br />
0,21<br />
<br />
AHI>30<br />
1,72<br />
0,20<br />
<br />
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).<br />
<br />
Tỉ số khả dĩ dương, tỉ số khả dĩ âm của BCH<br />
Berlin lần lượt là 2,48 và 0,24 tương ứng với<br />
ngưỡng chẩn đoán AHI ≥ 5, 1,99 và 0,21 với AHI<br />
>15, 1,72 và 0,20 với AHI>30.<br />
<br />
Mối liên hệ giữa các thành phần bảng câu<br />
hỏi Berlin với AHI<br />
Trong các thành phần của BCH, chỉ có câu<br />
hỏi 1 (có ngáy hay không), câu hỏi 4 (ngáy có<br />
ảnh hưởng người ngủ chung), câu hỏi 5 (có cơn<br />
ngưng thở lúc ngủ) và phần 3 (THA, béo phì) là<br />
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với ngưỡng<br />
chẩn đoán AHI≥5 (Bảng 4).<br />
Bảng 4. Tỉ số số chênh hiệu chỉnh của các thành phần<br />
BCH Berlin với ngưỡng AHI≥5<br />
Thành phần BCH<br />
Phần 1<br />
Câu hỏi 1<br />
Câu hỏi 2<br />
Câu hỏi 3<br />
Câu hỏi 4<br />
Câu hỏi 5<br />
Phần 2<br />
Câu hỏi 6<br />
Câu hỏi 7<br />
Câu hỏi 8<br />
Câu hỏi 9<br />
Phần 3 (Câu hỏi 10)<br />
<br />
Tỉ số số chênh hiệu chỉnh<br />
(OR, 95%CI)<br />
10,0 (3,0-33,5)<br />
14,9 (1,1-206,8)<br />
1,9 (0,4-8,1)<br />
0,4 (0,1-2,1)<br />
4,4 (1,1-17,7)<br />
6,1 (1,1-35,4)<br />
1,3 (0,5-3,0)<br />
0,4 (0,1-1,5)<br />
1,9 (0,5-7,2)<br />
2,4 (0,2-32,6)<br />
1,6 (0-632,7)<br />
6,3 (2,2-18,5)<br />
<br />
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Trong NC này, khi áp dụng tầm soát<br />
NTLNTN trên các đối tượng rối loạn giấc ngủ<br />
người Việt Nam, BCH Berlin cho độ nhạy khá<br />
cao (84,3%- 90,6%) tuy nhiên độ đặc hiệu (47,5%66,0%), tỉ số khả dĩ dương (1,72-2,48) và tỉ số khả<br />
dĩ âm (0,20-0,24) thấp. Do đó, BCH Berlin chưa<br />
thật sự là công cụ tầm soát hiệu quả trên các BN<br />
có rối loạn giấc ngủ, tuy nhiên trong điều kiện<br />
thiếu trang thiết bị chẩn đoán như hiện nay,<br />
BCH có thể ứng dụng trong việc tầm soát các đối<br />
tượng NTLNTN mức độ nặng (AHI>30) với tỉ lệ<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa I<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
bỏ sót có thể chấp nhận được là 9,4%.<br />
Các NC trước đây cũng ghi nhận giá trị của<br />
BCH Berlin rất thay đổi. Trong các NC thực hiện<br />
trên dân số không có tiền sử liên quan đến rối<br />
loạn giấc ngủ, BCH Berlin cho độ nhạy và độ đặc<br />
hiệu khá cao, Netzer NC và cộng sự ghi nhận với<br />
ngưỡng chẩn đoán AHI ≥5, độ nhạy và độ đặc<br />
hiệu tương ứng của BCH Berlin lần lượt là 86%<br />
và 77%(8). Tương tự Sharma SK và cộng sự cũng<br />
ghi nhận độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao cho<br />
BCH Berlin là 85,5% cho độ nhạy và 95,2% cho<br />
độ đặc hiệu(12). Tuy nhiên các NC thực hiện trên<br />
dân số có tiền sử rối loạn giấc ngủ lại ghi nhận<br />
độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin không<br />
cao. Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin lần<br />
lượt là 72,1% và 50% theo A.P.Var(1), 68% và 49%<br />
theo Ahmadi N(2).<br />
Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin<br />
trong tầm soát NTLNTN trên các đối tượng rối<br />
loạn giấc ngủ không cao có thể do tỉ lệ hiện mắc<br />
NTLNTN cao trên các đối tượng này (trong NC<br />
của chúng tôi là 57,3% (n=70), điều này sẽ làm<br />
cho tăng số bệnh nhân dương tính giả và âm<br />
tính giả theo BCH Berlin. Khi so sánh với các NC<br />
trước đây cùng được thực hiện trên các đối<br />
tượng rối loạn giấc ngủ, NC của chúng tôi ghi<br />
nhận độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin cao<br />
hơn. Điều này có thể được lý giải là do trong NC<br />
này, có một tỉ lệ không nhỏ (34%) các đối tượng<br />
đến khám vì lí do mất ngủ không liên quan đến<br />
các triệu chứng của NTLNTN, ngoài ra 2 nhóm<br />
đối tượng chiếm tỉ lệ cao nhất là nhóm AHI30 (25,8%).<br />
Một trong các lý do có thể giải thích BCH<br />
Berlin có độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ dương và tỉ số<br />
khả dĩ âm không cao là do không có câu hỏi nào<br />
trong phần 2 (triệu chứng buồn ngủ ban ngày<br />
quá mức) có mối liên quan với AHI. Kết quả này<br />
tương tự với các NC trước đây. A.P.Var và cộng<br />
sự cũng ghi nhận không có câu hỏi nào của phần<br />
2 có tương quan với AHI, chỉ có câu hỏi 2, 5 của<br />
phần 1 (liên quan tới mức độ ngáy to, cơn ngưng<br />
thở lúc ngủ được chứng kiến) và phần 3<br />
(THA/béo phì) tương quan với AHI(1). Ahmadi N<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa I<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
cũng ghi nhận tương tự, không có mối liên quan<br />
giữa kết quả phần 2 với chỉ số rối loạn hô hấp<br />
(Respiratory Disturbance Index)(12). Hay trong<br />
NC phân tích gộp của Ramachandran, tác giả<br />
cũng ghi nhận chỉ có BMI, tiền sử THA và triệu<br />
chứng thở nấc ban đêm là những yếu tố tăng độ<br />
chính xác của các xét nghiệm chẩn đoán(10). Điều<br />
này có thể được lý giải là do triệu chứng buồn<br />
ngủ ban ngày không đặc hiệu cho bệnh<br />
NTLNTN, triệu chứng này có thể là hậu quả của<br />
nhiều loại rối loạn giấc ngủ khác như mất ngủ<br />
do các nguyên nhân, hội chứng chân không yên,<br />
chứng ngủ rũ…Trong NC của chúng tôi có tới<br />
34% các đối tượng đến khám vì mất ngủ mà đa<br />
phần là do các nguyên nhân tâm lý chính điều<br />
này có thể làm tăng tỉ lệ dương tính giả của phần<br />
2. Bên cạnh đó khi tiến hành khảo sát BCH,<br />
chúng tôi cũng ghi nhận câu 8 trong phần 2<br />
(Buồn ngủ khi điều khiển phương tiện giao<br />
thông) không thật sự phù hợp với đối tượng Việt<br />
Nam, do đặc điểm giao thông ở Việt Nam chủ<br />
yếu sử dụng xe gắn máy, mật độ giao thông rất<br />
cao nên tỉ lệ này không tương đồng với các nước<br />
sử dụng xe ô tô và mật độ giao thông thấp hơn.<br />
Do đó, để có thể áp dụng hiệu quả hơn<br />
BCH Berlin trong chẩn đoán NTLNTN, cần<br />
hiệu chỉnh lại các câu hỏi trong phần 2 liên<br />
quan đến triệu chứng buồn ngủ ban ngày theo<br />
hướng giảm vai trò của các câu hỏi này trong<br />
kết quả chung của BCH.<br />
Những hạn chế của NC này gồm: Thứ<br />
nhất, đây là NC mô tả cắt ngang nên không<br />
chỉ ra được sự liên quan giữa NTLNTN và các<br />
yếu tố khác có phải là liên quan nhân quả hay<br />
không. Thứ hai, tuy BCH Berlin trong NC<br />
được dịch sang tiếng việt và được sửa lại bởi 2<br />
chuyên gia về rối loạn giấc ngủ nhưng chưa<br />
đáp ứng được yêu cầu về quy trình dịch xuôi,<br />
dịch ngược trong NC khoa học. Thứ ba, trong<br />
NC này kết quả AHI được đo bởi 2 máy<br />
ĐKGN khác nhau. Thứ tư, NC này được thực<br />
hiện tại trung tâm chẩn đoán y khoa tư nhân<br />
tại TP. HCM. Mặc dù, các đối tượng được lấy<br />
liên tục trong 7 tháng tuy nhiên để tăng tính<br />
<br />
127<br />
<br />