intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

VĂN HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA - NHÌN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

167
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết sử dụng cách nhìn nhân học và xã hội học về văn hóa để phân tích một số vấn đề văn hóa cơ bản hiện nay ở Việt Nam trong quá trình trở nên hiện đại với bối cảnh áp lực toàn cầu hóa. Nếu văn hóa bao gồm một hệ thống tri thức nhất định, thì để nhanh chóng bắt kịp thế giới, hiện đại hóa ở Việt Nam phải bao gồm việc tiếp thu một cách sáng tạo hệ tri thức quốc tế cập nhật. Việt Nam cũng cần xây dựng một hệ giá trị...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: VĂN HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA - NHÌN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

  1. VĂN HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA - NHÌN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY PGS.TS. Bùi Thế Cường Viện trưởng, Viện PTBV vùng Nam Bộ Bài viết sử dụng cách nhìn nhân học và xã hội học về văn hóa để phân tích một số vấn đề văn hóa cơ bản hiện nay ở Việt Nam trong quá trình trở nên hiện đại với bối cảnh áp lực toàn cầu hóa. Nếu văn hóa bao gồm một hệ thống tri thức nhất định, thì để nhanh chóng bắt kịp thế giới, hiện đại hóa ở Việt Nam phải bao gồm việc tiếp thu một cách sáng tạo hệ tri thức quốc tế cập nhật. Việt Nam cũng cần xây dựng một hệ giá trị và hệ chuẩn mực của tính hiện đại, trong đó luật pháp là hình thái cốt lõi. Là lối sống, văn hóa sẽ là rất khó đồng thời là rất dễ để biến đổi. Nhờ vậy, một xã hội mới có thể vừa bắt kịp thời đại vừa giữ gìn được bản sắc của mình. Mọi quá trình hiện đại hóa cho đến nay đều đòi hỏi một điều kiện tiên quyết, đó là một sự đột khởi về văn hóa. Đổi Mới là một sự đột phá về mặt văn hóa- xã hội, song để tiến nhanh đến một xã hội công nghiệp hóa đầy đủ, xã hội Việt Nam vẫn cần một tinh thần quật khởi mạnh mẽ. Theo cách nhìn xã hội học và nhân học, văn hóa có thể được xem là cấu thành của ba nội dung lớn: hệ tri thức, giá trị và chuẩn mực. Bài viết này xem xét
  2. văn hóa theo quan niệm trên trong mối quan hệ với quá trình hiện đại hóa và đặt nó vào bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Một đặc điểm quan trọng của cách nhìn xã hội học là nó không chỉ đồng ý với quyết định luận kinh tế, mà còn thừa nhận và nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa trong tổ chức xã hội, trong tiến trình hiện đại hóa. Lý giải sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu, xã hội học đã cống hiến hai cách giải thích đặc sắc: cách giải thích của Mác dựa trên cấu trúc kinh tế (một kiểu cấu trúc xã hội), và cách giải thích của Weber dựa trên văn hóa. Nói cách khác, Weber nhìn chủ nghĩa tư bản không phải chỉ là một loại hình cấu trúc xã hội, mà còn là một loại hình văn hóa. Cả hai cách nhìn này cống hiến cho chúng ta một hàm ý kép: xây dựng một xã hội hiện đại có nghĩa là (phải) kiến tạo nên một cấu trúc kinh tế-xã hội đặc thù, đồng thời cũng (phải) là kiến tạo nên một kiểu văn hóa đặc thù (Marx, 1961, 1963 và 1976. Weber, 2008). 1. VĂN HÓA NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI HÓA Xã hội công nghiệp được tổ chức theo nhiều nguyên lý trái ngược với xã hội tiền công nghiệp. Chẳng hạn, các nhà xã hội học thường đồng ý với nhau rằng xã hội công nghiệp dựa trên những nguyên lý sau đây: xã hội thay cho cộng đồng (quan hệ chức năng thay cho quan hệ sơ cấp), tổ chức quan liêu, dựa trên khoa học và công nghệ, đề cao cá nhân luận (individualism, kèm theo là quyền con người), duy lý (reason), hợp lý (rational). Một số nhà xã hội học đi theo xu hướng kiểm kê những đặc điểm khác nhau phân biệt giữa hai kiểu xã hội, cổ truyền tiền hiện đại và công nghiệp. Từ đó xây dựng những tiêu chí cho hiện đại hóa: một khi đạt được rõ nét những đặc điểm này thì được xem là đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa.
  3. Bảng 1 minh họa một sự so sánh khác biệt giữa hai kiểu xã hội ngăn cách nhau bởi hiện đại hóa. Có thể tạm gọi “phương pháp luận” của sự hình thành bảng này là “cách thức kiểm kê”. Cách này có ích lợi về mặt bản đồ nhận thức lẫn chính sách. Nó bắt đầu từ các biểu hiện (đặc điểm) mang tính thực chứng (trực tiếp, hữu hình, đo lường được). Từ đó người ta có thể đưa ra một hệ thống chính sách cho sự chuyển đổi và kiến tạo mới một xã hội hiện đại. Khi làm nảy sinh đầy đủ các “biểu hiện” (đặc điểm) này cho một quốc gia, ta có thể nói đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa. Xét về mặt văn hóa, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa bao gồm việc tạo dựng nên một hệ văn hoá hiện đại, mang tính công nghiệp (cả về tri thức, giá trị, chuẩn mực, và phong cách). Việc tạo dựng này sẽ là một sự đụng độ sâu sắc với hệ văn hóa tiền công nghiệp. Nhưng một nhóm người hay cả một quốc gia đi vào hiện đại hóa lại không thể vứt bỏ toàn bộ di sản văn hoá của mình. Một mặt, nó phải dùng di sản đã có này làm động lực cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mặt khác, nó phải giữ di sản này để làm nên bản sắc (identity) ngay cả sau khi đã hiện đại hóa (Kidd, 2002). 2. VĂN HÓA LÀ HỆ TRI THỨC: HIỆN ĐẠI HÓA CẦN MỘT HỆ TRI THỨC QUỐC TẾ CẬP NHẬT Trong cách hiểu xã hội học và nhân học nêu trên, văn hóa trước hết bao gồm hệ tri thức. Đó là thế giới quan, nhân sinh quan, hiểu biết về công nghệ, tổ chức xã hội, v.v. Nhìn vào bề mặt đời sống xã hội người ta tưởng rằng hệ tri thức chỉ là một khối khổng lồ các dữ kiện, thông tin và tri thức. Thực ra, bên dưới biểu hiện rời rạc như vậy, chúng được xã hội liên kết và tổ chức lại với nhau. Cách liên kết và tổ chức tri thức phụ thuộc vào bản chất của nền văn hóa và cấu trúc xã hội. Trong xã hội hiện đại, hệ tri thức chủ yếu dựa trên khoa học và công nghệ, duy lý
  4. và hợp lý hóa, có tính quốc tế, được tích lũy với tốc độ nhanh chóng và thường xuyên biến đổi. Giống như các xã hội đang phát triển khác, người ta có thể tìm thấy trong xã hội Việt Nam cùng lúc mọi loại tri thức của quá khứ dân tộc cũng như của thế giới đương đại. Nhưng hệ tri thức, với tính cách là một kiểu tổ chức tri thức bị định hình bởi cấu trúc xã hội, thì về nhiều mặt hệ tri thức ở Việt Nam hiện nay tỏ ra là lạc hậu so với thời đại. Người ta đọc thấy vô số bài báo than phiền về tình trạng tri thức nghèo nàn, lạc hậu, nhiều sai lạc trong hệ thống giáo dục phổ thông, dạy nghề và đại học. 3. VĂN HÓA LÀ HỆ GIÁ TRỊ: HIỆN ĐẠI HOÁ CẦN MỘT HỆ GÍA TRỊ CỦA TÍNH HIỆN ĐẠI Trong một xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử đều có những điều được xã hội hoặc một số nhóm xem là "giá trị" (những cái muốn được đạt tới, theo đuổi, những cái được đánh giá cao, được xem trọng, ...). Hệ các giá trị này tạo ra một môi trường định hướng tư tưởng và hành động cho con người, cho các cá nhân và nhóm, qua đó tạo ra hành động chung và liên kết xã hội. Khi hệ giá trị này hỗn loạn, không rõ ràng, đối nghịch nhau, xã hội sẽ rơi vào trạng thái "phi chuẩn mực" (anomie), ở đó các cá nhân và nhóm thiếu được định hướng trong tư tưởng, cảm xúc và hành vi. Bảng 1. Khác biệt giữa kiểu xã hội cổ truyền và xã hội hiện đại Vùng/Đặc điểm Xã hội cổ truyền Xã hội hiện đại
  5. Nhỏ, rời rạc. Lớn, liên kết, tập trung. Quy mô Cấu trúc xã Kinh tế Phân công lao động đơn Phân công lao động hội giản, ít năng suất, nông cao, sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, nghiệp hàng loạt, năng sản xuất hộ gia đình là phổ suất và hiệu quả, công biến, ít lao động trí óc. xưởng và công ty là phổ biến, tỷ lệ cao lao động trí óc. Dân số Nhỏ, rời rạc, đóng, cư trú ở Lớn, liên kết, di động cao, cư trú ở đô thị. nông thôn. Quan hệ Sơ cấp, định danh, ít riêng Chức năng, vô danh, tư. riêng tư. Dựa trên nhiều phân loại phi Chủ yếu dựa trên kinh Phân tầng xã kinh tế, cứng nhắc và đóng, tế, lỏng và mở hơn, hội ít di động. tính di động xã hội cao. Vị thế, Phổ biến vị thế gán, ít Phổ biến vị thế giành chuyên biệt hóa vai trò. được, tăng chuyên biệt vai trò hóa vai trò. Bất bình đẳng, gia trưởng, Bình đẳng hơn, nhiều Khuôn tham gia ngoài gia
  6. mẫu giới bên trong gia đình. đình. Bất bình đẳng, gia trưởng, Bình đẳng hơn cả trong Khuôn mẫu tuổi đề cao tuổi tác một chiều. gia đình, tổ chức và xã hội. Chuyên chế, ít trách nhiệm Dân chủ, đảm nhiệm Nhà nước xã hội. trách nhiệm xã hội. Gia đình Gia đình mở rộng, nhấn Gia đình hạt nhân, ít mạnh chức năng kinh tế và chức năng kinh tế, dễ xã hội hóa, bền vững. biến động. Là nền tảng của thế giới Nhạt đạo, đa dạng tôn Tôn giáo quan, không đa dạng tôn giáo, không phải là nền tảng của thế giới quan. giáo. Giáo dục Hạn chế trong giới tinh hoa. Phổ cập, tiên tiến. Sức khỏe Mức sinh, mức chết cao, Mức sinh, mức chết tuổi thọ thấp, chưa có ý thấp, tuổi thọ cao, nếp niệm vệ sinh. sống vệ sinh. Truyền Trực tiếp cá nhân đến cá Truyền thông đ ại thông nhân. chúng.
  7. Kiể m Trực tiếp, phi kết cấu Hệ thống tư pháp, cảnh sát có kết cấu (formal). soát xã (informal). hội Hình thái Thuần nhất, toàn trị. Khác biệt hóa cao. tổ chức Văn hóa Tri thức Dựa trên khoa học, tích Dân gian, nghèo. lũy nhanh. Tiền công nghiệp, năng Công nghiệp, khoa học, Công nghệ lượng cơ bắp con người nguồn năng lượng cao hoặc động vật. cấp. Giá trị Thuần nhất, bị thiêng hóa, Đa dạng, thế tục, cá cộng đồng luận (hẹp), ít nhân luận, toàn cầu luận, khoan dung. khoan dung. Chuẩn Luật tục, cứng nhắc về Đề luật cao pháp, mực phong tục tập quán. khoan dung về phong tục tập quán. Kiểu cộng đồng nông thôn. Lối sống đô thị. Phong cách sống
  8. Định Gắn với quá khứ. Gắn với hiện tại và hướng tương lai. Biến đổi xã hội Chậm, qua nhiều thế hệ. Nhanh, ngay trong một thế hệ. Nguồn: Bùi Thế Cường phát triển thêm dựa trên sơ đồ của Macionis (1980). Khi bàn về sự thành công của các con rồng và con hổ châu Á, người ta thường nhắc đến vai trò của chính sách nhấn mạnh “giá trị quan châu Á”, đến vai trò của nền văn hóa Khổng giáo. Điều này là đúng đắn. Tuy nhiên, cần thấy một khía cạnh khác là những nước phát triển thành công ấy, trong khi đề cao các cơ sở văn hóa truyền thống, trên thực tế họ đều cam kết rất mạnh mẽ với hệ giá trị của xã hội công nghiệp. Chẳng hạn, trong nhiều thập niên, định hướng chính sách và tuyên truyền ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, ở các lãnh thổ như Đài Loan, Hongkong, đều lấy phát triển kinh tế và đời sống thịnh vượng làm trung tâm, coi trọng sản xuất và thương mại hiệu quả, đặt toàn bộ xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ. Cuộc cải cách ở Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng năm 1978 cũng bắt đầu bằng những mục tiêu (giá trị) mới: làm giàu, để một số giàu trước, 4 hiện đại hóa, v.v. Trở lại trường hợp Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của toàn quốc gia. Đây là phương châm đã được Đảng xác định, và nhận được sự đồng thuận của hầu hết các lực lượng xã hội. Điều này phải đi vào "văn hoá" của xã hội, tức là trở thành một "giá trị". Chẳng hạn, "giàu" đã trở thành một giá trị, được phát biểu một cách chính thống trong khẩu hiệu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tuy nhiên, vẫn còn hàng loạt quy định, thái độ, cách nghĩ và cách làm không thừa nhận và khuyến khích
  9. tinh thần nói trên ("tinh thần làm giàu"). Bản thân tinh thần đó, giá trị đó cũng không được diễn giải rõ ràng, khiến cho các cá nhân và nhóm không có những định hướng nhất quán. Sự không rõ ràng này thể hiện cả ở trong cán bộ chính trị, công chức, giới doanh nghiệp, công luận và trong đông đảo người dân. Khi nhấn mạnh đến hệ giá trị của xã hội hiện đại, điều này không có nghĩa là đề cao nó như là một cái gì tuyệt đối đẹp đẽ, không thể phê phán. Trên thực tế, hệ giá trị của xã hội hiện đại cũng là điều kiện (nhưng không phải là nguyên nhân, nguồn gốc) cho việc nảy sinh nhiều hệ quả xấu xa, tệ hại trong hành vi con người. Vấn đề ở đây chỉ là ở chỗ, để giải quyết được bài toán phát triển, hiện đại hóa, một xã hội phải được thay thế hệ giá trị cổ truyền bằng hệ giá trị hiện đại; và các thể chế sẽ là những công cụ để hạn chế những hệ quả xấu không mong đợi. Hộp 1. Định hướng giá trị “sự giàu có” trong người lãnh đạo và người dân: Phỏng vấn của VietnamNet với ông Grzegorz Kolodko, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ba Lan. Có người cho rằng, những năm dài thực hiện mô hình kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp đã hình thành tâm lý bình quân chủ nghĩa, kỳ thị với người giàu. Theo ông, chúng ta nên giải quyết trở ngại tâm lý này như thế nào? Tôi nghĩ đó là câu hỏi đặt ra với hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi chứ không riêng gì Việt Nam. Nếu người giàu trở nên giàu hơn trên sự thiệt thòi của những người nghèo, cần phải có sự đối thoại trong công luận và điều chỉnh chính sách. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, điều này không đúng. Thực tế là mặc dù có khoảng cách về thu nhập giữa người giàu và người nghèo song thu nhập của tất cả mọi người đều tăng lên. Nếu những người giàu lên một cách chính đáng nhờ
  10. khả năng quản lý, giáo dục cao... thì không có vấn đề gì. Chính người nghèo lại được hưởng lợi từ đó. Nhưng nếu khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn, nhiều người nghèo hơn thì Chính phủ phải có phản ứng, có thể bằng chính sách thu nhập hay chính sách xã hội để tái phân phối của cải. Không nên tư nhân hoá ồ ạt, thiếu cân nhắc. VietnamNet. 1/6/2004. Việt Lâm- Cẩm Tú thực hiện. 4. VĂN HÓA LÀ HỆ CHUẨN MỰC TRONG ĐÓ LUẬT LÀ MỘT CỐT LÕI Có nhiều định nghĩa, cách hiểu về văn hóa. Cách hiểu của xã hội học về văn hóa có những điểm khác biệt, có thể đôi khi làm cho các nhà nghiên cứu ở những lĩnh vực khác hoặc công luận nói chung khó hình dung. Mối liên quan giữa văn hóa với luật pháp có thể là một điểm khác biệt như vậy. Phần lớn nhà xã hội học đồng ý với nhau rằng một nội dung lớn của văn hóa là hệ chuẩn mực. Nhưng có lẽ chỉ một số nhất định các nhà xã hội học tiếp tục nghĩ đến luật pháp, với tính cách là biểu hiện ở trình độ cao của hệ chuẩn mực, cũng là một bộ phận của văn hóa. Theo tôi, việc nhấn mạnh luật là một bộ phận hữu cơ của văn hóa là rất quan trọng trong việc nhận thức về chủ đề hiện đại hóa. Bởi vì một đặc trưng then chốt của xã hội hiện đại là nó vận hành trên nền tảng một hệ thống luật pháp rõ ràng, và hệ thống luật pháp này đến lượt nó lại là một biểu hiện nhất quán theo các nguyên lý tổ chức của xã hội công nghiệp hiện đại (xem Bảng 1). Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa, khi xã hội Việt Nam của thời kỳ vừa qua và mới chỉ rất gần đây thôi, do những lý do lịch sử khác nhau, đã rơi vào một tình trạng khá phổ biến là xem nhẹ vai trò của luật pháp.
  11. Trên cơ sở hệ thống giá trị, văn hoá tạo ra một loạt chuẩn mực làm định hướng cho tư tưởng và hành vi con người. Các chuẩn mực tồn tại dưới nhiều hình thái: những cấm kị (taboo), phong tục, tập quán, luật pháp. Trong một xã hội văn minh ở thời đại hiện nay, thì một cốt lõi của hệ thống chuẩn mực là luật pháp. Quan niệm về luật pháp như là một hình thái biểu hiện phát triển cao của văn hóa cho phép giải thích một tình hình cơ bản và nổi bật hiện nay ở Việt Nam: tình trạng luật pháp không rõ ràng và bị xem thường, thiếu hiệu lực như hiện nay đương nhiên dẫn đến hoặc ít nhất là có sự liên quan mật thiết đến tình trạng xuống cấp và hỗn độn của văn hóa. Ngược lại, muốn giải quyết căn bản trạng thái xuống cấp và hỗn độn của văn hóa, cần phải tập trung vào lĩnh vực pháp luật, xem đây là then chốt. Việc né tránh điểm then chốt này, phân tán nỗ lực vào các khía cạnh không then chốt khác của văn hoá, sẽ không đem lại được chuyển biến cơ bản trong văn hóa. 5. VĂN HÓA LÀ LỐI SỐNG: NẾU VẬY SẼ LÀ CƠ HỘI ĐỂ BIẾN ĐỔI NHANH? Theo cách hiểu xã hội học và nhân học, văn hoá không phải chỉ liên quan đến đời sống tinh thần, văn hoá là "cách" mà xã hội làm mọi điều, mọi việc. Như vậy, nói chung lại, văn hoá là lối sống: nó bao gồm cả cách sản xuất, công nghệ, khối tri thức và cách tạo ra tri thức, cách suy nghĩ và cảm xúc, cách xã hội hóa (giáo dục và đào tạo) con người, cách sinh hoạt. Nếu nhìn nhận như thế về văn hóa, chúng ta sẽ thấy việc biến đổi xã hội và phát triển là rất khó khăn, vì nó liên quan đến toàn bộ "cách thức sống", bao gồm "cách nghĩ" và "cách làm", của cả một xã hội. Đây là những gì đã được hình thành từ lâu đời, và được cả một khối dân chúng đông đúc chia sẻ. Do đó, thay đổi sẽ là rất khó khăn.
  12. Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy mục tiêu thay đổi xã hội sẽ trở nên đơn giản nếu biết tập trung vào cái gì là cốt lõi, bởi vì văn hoá chỉ liên quan đến "cách thức" mà thôi. Một khi chúng ta thay đổi "cách nghĩ, cách làm" thì chúng ta sẽ không tạo ra những kết quả cũ nữa, mà là những kết quả mới. Thêm nữa, việc thay đổi "cách nghĩ, cách làm" không nhất thiết phải diễn ra đồng thời trong toàn xã hội. Trước hết và quan trọng nhất chỉ cần và phải cần sự thay đổi ở các giai tầng có liên quan mật thiết đến việc điều hành phát triển xã hội. Điều này được kiểm chứng ở một số xã hội châu Á, nơi có một di sản truyền thống hàng ngàn năm, nhưng đã giải quyết xong vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hoá trong vòng 20-30 năm, mà như nhiều nghiên cứu phát triển đã chỉ ra: một nguyên nhân quan trọng của sự thành công là tầm nhìn, quyết tâm và năng lực của giới lãnh đạo quản lý đất nước. Muốn đạt mục tiêu phát triển "rút ngắn", vào thời điểm này Việt Nam cần tập trung trước hết vào một việc: đổi mới cách nghĩ, cách làm hiện tại của các giai tầng liên quan đến quản lý ở mọi cấp, mọi lĩnh vực (thành công của Đổi Mới trong hơn 20 năm qua chẳng phải là đã nhờ thế hay sao?). 6. VĂN HÓA LÀ MỘT PHẦN HỮU CƠ CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ VÀ TỔ CH Ứ C Theo xã hội học, cơ chế then chốt để vận hành xã hội là các định chế (social institution), bởi vì các định chế sinh ra để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội. Các định chế cơ bản của xã hội, bất kể ở hình thái nào, gồm có: kinh tế, trật tự (pháp luật, chính trị, Nhà nước), giáo dục, niềm tin (tín ngưỡng, tôn giáo), tái sản xuất (gia đình). Định chế là một kết hợp của bốn thành phần: ý tưởng cơ bản, các giá trị và quy tắc (văn hóa), các nhóm xã hội tham gia, cơ sở vật chất (Turner, 1998).
  13. Một định nghĩa khác có thể giúp ta hiểu về bản chất của định chế và yếu tố văn hóa trong định chế: “Douglas North… định nghĩa định chế là “luật chơi” đề ra những sự khích lệ cũng như uốn nắn hành vi của một tổ chức và cá nhân trong xã hội. Những định chế có thể là những luật lệ chính thức, ví dụ như Hiến pháp, luật pháp, nội quy và những quy trình nội bộ trong một quốc gia. Hay nó có thể là những giá trị, những quy tắc sống không chính thức, ví dụ như những quy tắc đã đưa người ta đến những hành vi quan liêu. Định chế là do con người tạo ra và bắt nguồn trong lịch sử. Nó định ra sự khích lệ làm cho xã hội được tổ chức và vận hành một cách trật tự, cả việc ký các thỏa ước. Những định chế tốt đẹp vững mạnh thường làm cho cộng đồng hiểu rằng cần thiết cho phép các chính sách hợp lý được thực thi nhằm hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài. Những định chế chính là cơ chế vận hành của chính quyền” (Ghesquiere, 2008, trang 149). Như vậy, văn hóa bao giờ cũng là một phần hữu cơ của mọi định chế, thậm chí là phần hữu cơ then chốt, là “linh hồn” của định chế. Hiện nay, việc xem xét và xây dựng hợp phần văn hóa trong định chế chính trị và kinh tế là quan trọng nhất. Nhưng cũng sẽ là khó khăn nhất vì nó liên quan đến những lợi ích và cách nghĩ, cách làm có cội rễ sâu xa hiện nay trong xã hội Việt Nam. Định chế và tổ chức là những khâu yếu nhất hiện nay, gây trở ngại cho phát triển. Công tác tư tưởng văn hóa phải tập trung vào việc tham gia vào áp dụng những hình thái định chế và tổ chức hiện đại. 7. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ VĂN HÓA: ĐIỂM NHẤN THEN CHỐT HIỆN NAY? Đồng thời với việc đề cập khía cạnh bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, cần nhấn mạnh hơn đến khía cạnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa trong văn hoá. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá xã hội sẽ không thể diễn ra
  14. nhanh chóng để đạt được mục tiêu "rút ngắn" nếu khía cạnh hội nhập quốc tế về văn hóa không được nhấn mạnh đầy đủ, thậm chí xem là khía cạnh then chốt hiện nay. Hội nhập quốc tế về văn hóa chính là hội nhập về "cách nghĩ, cách làm", các giá trị và chuẩn mực, các định chế và tổ chức mang tính quốc tế, toàn cầu, nảy sinh trong một quá trình hiện đại hóa lâu dài hơn hai thế kỷ, đặc biệt trong nửa sau thế kỷ XX. Hộp 2. Thanh niên Việt Nam đang "tụt hậu từ A đến Z" so với thanh niên trong khu vực và thế giới: Lo lắng được đặt ra trong Hội thảo "Hội nhập quốc tế thanh niên" do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức sáng 5/6/2004. Trưởng Ban Quốc tế kiêm Bí thư Trung ương Đoàn Đoàn Văn Thái: "Tham gia hội nhập quốc tế là nhu cầu tự nhiên của thanh niên Việt Nam... Tuy nhiên, thanh niên Việt Nam nhìn chung chưa có sự chuẩn bị tích cực tham gia hội nhập quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Thêm vào đó, trình độ ngoại ngữ, tin học, trình độ chuyên môn của thanh niên Việt Nam nhìn chung còn thấp so với trình độ tương tự của thanh niên các nước trong khu vực và trên thế giới". Theo ông Trần Văn Miều, hội nhập quốc tế thanh niên là một xu hướng tất yếu, đòi hỏi thanh niên phải nâng cao tâm và trí mới có thể chủ động hội nhập. Tuy nhiên, ông tỏ ra lo lắng: "Vừa rồi, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố chỉ tiêu về trí tuệ, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích ứng với điều kiện tiếp nhận khoa học kỹ thuật của thanh niên Việt Nam theo chuẩn thang điểm 10 của khu vực khiến người ta phải giật mình: trí tuệ đạt 2,3/10; ngoại ngữ là 2,5/10 và khả năng thích ứng với điều kiện tiếp cận khoa học kỹ thuật chỉ đạt hơn 2/10 điểm!".
  15. Dẫn ví dụ cụ thể từ việc yếu kém ý thức lẫn trình độ ngoại ngữ làm cản trở hội nhập quốc tế thanh niên, ông Ngô Đức Lý kể lại lần đi Hàn Quốc của mình bằng một nhận xét đầy lo lắng và được lặp đi lặp lại không dưới 3 lần "xấu hổ vô cùng các đồng chí ạ!". Ông kết luận: Mỗi một lần theo đoàn ra nước ngoài là đại diện cho bộ mặt và thể diện quốc gia, dân tộc. Hình ảnh đất nước Việt Nam sẽ được quảng bá qua tất cả những hành động, cử chỉ, lối ứng xử của chúng ta nơi đất khách nên trước khi tổ chức "đoàn ra", cần phải có sự tập huấn kỹ lưỡng về mọi mặt cho các thành viên trong đoàn, đặc biệt là văn hoá. Khi được VietnamNet phỏng vấn về các chuyến khảo sát nước ngoài do Đoàn Thanh niên tổ chức, ông Đoàn Văn Thái nhận xét: sau mỗi chuyến đi, ý thức, tác phong làm việc của thanh niên cũng có phần nào thay đổi, chuyển biến tích cực. Cụ thể, thanh niên ta học được ở bạn nhiều điều: từ cách quản lý xã hội, kỷ luật lao động, tác phong làm việc cho đến thái độ phục vụ. Trong đó, điển hình là sự thay đổi giờ giấc, tác phong làm việc: ít đến muộn, phát biểu, trình bày vấn đề gì cũng ngắn gọn, bớt rề rà hơn. Khi được hỏi “Những đoàn đi trước về có truyền đạt kinh nghiệm cho các đoàn sau không?, ông Thái nói: thường thì các đoàn bao giờ đi về cũng có báo cáo rút kinh nghiệm nhưng viết giống nhau lắm. Mục đích tổ chức các chuyến đi của Trung ương Đoàn là nhằm giúp cán bộ, đoàn viên thanh niên tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm của Đoàn Thanh niên nước bạn cũng như cơ chế chính sách thanh niên của nước đó song hầu như các đoàn đi về không làm được điều đó. Phần lớn còn nặng về tham quan du lịch, ngắm cảnh. Thanh niên Việt Nam đang “tụt hậu từ A tới Z”. VietnamNet, 6/6/2004. 8. NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM: ĐỐI CHIẾU VỚI HIỆN ĐẠI HÓA
  16. Chủ nghĩa Mác và xã hội học hành động nhấn mạnh đến vai trò của con người trong xã hội và lịch sử (Bùi Thế Cường, 2006. Homans, 1964. Sztompka, 2003). Một nhà quan sát có thể “thấy” được một xã hội qua “nhìn” vào (tìm hiểu) con người ở xã hội ấy. Vì vậy, sự nghiệp phát triển một quốc gia tức là làm biến đổi cấu trúc xã hội và văn hóa của quốc gia ấy; làm những biến đổi văn hóa-xã hội này tức là thay đổi con người của xã hội ấy mà kẻ cam kết, thiết kế và thực hiện sự thay đổi lại chính là họ. Trở lại với cách giải thích của xã hội học văn hóa về nguồn gốc của thành công kinh tế, học theo Weber một số học giả đã tìm cách lý giải sự thành công của Nhật Bản và các con rồng châu Á là nhờ vào sức mạnh văn hóa truyền thống với những giá trị và chuẩn mực Khổng giáo. Rõ ràng, để có “thần kỳ kinh tế” một dân tộc phải xuất phát từ nền văn hóa của chính mình (Kidd, 2002). Vậy thì những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam có thể phù hợp và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Cần phải coi đây là một trong những câu hỏi nghiên cứu quan trọng nhất hiện nay đối với các nhà xã hội học phát triển và nhân học phát triển Việt Nam và các tổ chức nghiên cứu của họ, mà tiếc rằng cho đến nay chưa được quan tâm đúng mức. Hộp 3 thử bước đầu kiểm kê một số nét mạnh của văn hóa Việt Nam có thể trở thành điểm tựa cho hiện đại hóa thành công. Dĩ nhiên, xã hội học phát triển cũng phải quan tâm không kém đến một “phản đề” của câu hỏi nghiên cứu trên: thế còn những đức tính văn hóa nào của con người và xã hội Việt Nam gây trở ngại cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay? Trong một thời gian dài, những nghiên cứu về “phản đề” này không được hoan nghênh. Gần đây, những nghiên cứu theo hướng đó của Vương Trí Nhàn đã được công luận chú ý, song không phải là không còn nhiều rào cản tâm lý (Vương Trí Nhàn, 2007). Dưới đây sẽ còn đề cập đến vấn đề này.
  17. Hộp 3. Những mặt mạnh về văn hoá của xã hội/con người Việt Nam - Tương đối bình đẳng. - Bình đẳng giới, phụ nữ có vị thế tương đối cao. - Đa dạng văn hoá nhưng có mức thuần nhất tương đối cao (87% người Kinh, chung ngôn ngữ và văn hoá). - Mối liên hệ gia đình chặt chẽ, được hỗ trợ bởi nền kinh tế hộ gia đình và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. - Làng là thực thể và tâm linh mạnh. - Quốc gia có sự liên kết và có cội nguồn. - Có tính thích nghi. - Dễ làm việc và sinh sống trong một nhóm nhỏ. - Sẵn sàng tìm kiếm lối thoát kinh tế. - Có động cơ thăng tiến, thành đạt. - Muốn và chú trọng cho con cái có được mức giáo dục cao hơn. - Học là một giá trị quan trọng. - Văn hoá hỗn dung của Đông Á và Đông Nam Á.
  18. - Có một hệ văn hoá Nho giáo, nhưng đã biến đổi theo bản địa. - Có một di sản lớn văn hóa Pháp và Mỹ, đã phần nào được bản địa hóa. - Di sản chủ nghĩa xã hội trong một loạt lĩnh vực: một số cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng, mức đi học ở các cấp, tư tưởng và chính sách nhấn mạnh vào phúc lợi, sớm có công đoàn và một số tổ chức quần chúng có ảnh hưởng mạnh ở cấp toàn quốc và có mạng lưới đến tận cơ sở. Nguồn: Bùi Thế Cường. 2007. 9. KIẾN TẠO VĂN HOÁ CẦN LÒNG TỰ TÔN ĐỒNG THỜI TINH THẦN TỰ PHÊ PHÁN Trong một thời gian dài kể cả cho đến hôm nay, việc phê phán trực diện những khía cạnh tiêu cực trong bản sắc văn hoá đã không được khuyến khích trên bình diện nghiên cứu và lý luận. Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hoá vừa mang tính giá trị nhưng vừa là trung tính. Chỉ có như vậy, người ta mới có thể phân tích một cách phê phán, và chỉ có phân tích một cách phê phán thì hiện trạng mới có thể thay đổi. Trong mọi nền văn hóa dân tộc, không có ngoại lệ, đều có khía cạnh cần đề cao cũng như cần phê phán, có khía cạnh tích cực và tiêu cực (theo nghĩa phù hợp hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của đời sống hiện tại và tương lai). Trên thực tế báo chí hàng ngày, chúng ta thấy vô số bài viết phê phán nhiều biểu hiện cụ thể trong lối sống hiện nay ở người Việt Nam. Tuy nhiên, những phân tích phê phán tổng quát và toàn diện hơn về văn hoá Việt Nam chưa được sẵn sàng đón nhận trong công luận. Trên báo chí vẫn hay nói chúng ta đang có mục tiêu và mong muốn phát triển "rút ngắn", "đi tắt, đón đầu". Chỉ có thể thay
  19. đổi nhanh, và thay đổi một cách thành công, khi có sự tự tin, tự hào. Nhưng điều này cũng chỉ có thể có được khi có tinh thần tự phê phán, chấp nhận sự phê phán. 10. HIỆN ĐẠI HÓA LÀ MỘT SỰ ĐỘT KHỞI VĂN HOÁ Nhiều công trình nghiên c ứu chỉ ra rằng, để tạo nên một thời đại biến đổi mạnh mẽ, bao giờ cũng xuất hiện trước đó một "tinh thần thời đại", điều được tạo ra bởi sự đột khởi về văn hoá. Có tác giả nói chúng ta hiện cần có một "khí thế công nghiệp hoá hiện đại hoá" để tiến hành được quá trình này một cách mạnh mẽ và rút ngắn (Trần Văn Thọ, 1997). Sách báo quốc tế đã và đang ghi nhận lại một số thời điểm lịch sử liên quan đến những đột khởi về văn hóa gắn với phát triển kinh tế. Thời đại Phục Hưng và Khai sáng ở Tây Âu thế kỷ XVI-XVIII đã khơi mào cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Cải cách giáo dục đại học ở Đức do vua Phổ giao cho Humbold khởi xướng sau thất bại năm 1807 trước Napoleon, đã dẫn đến tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ và công nghiệp Đức suốt thế kỷ XIX (Nguyễn Xuân Sanh, 2004). Nỗ lực của một thế hệ các học giả và những trước tác vạch thời đại của họ xung quanh vua Minh Trị ở Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đã dẫn Nhật Bản tới hiện đại hóa thành công. Sau thất bại 1945 của Đức và Nhật, người ta lại chứng kiến ở hai nước này một sự khởi phát tinh thần mới, điều đã dẫn đến “thần kỳ kinh tế” của hai nước trong thập niên 1960-1970. Gần đây, tin tức cho ta biết dường như có nhiều dấu hiệu cho thấy sau một thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh, xã hội Trung Quốc đang bước vào thời kỳ khởi phát một “trạng thái tinh thần dân tộc Trung Hoa” mới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ là kinh tế mà còn bao gồm một sự trỗi dậy văn hóa. Trong tiến trình khởi động kinh tế vừa qua ở Việt Nam có bao hàm một sự khởi phát mới về văn hóa? Câu trả lời của tôi là: có, nhưng chưa đủ. Rõ ràng, Đổi
  20. Mới không chỉ bao hàm nội dung kinh tế-xã hội. Chúng ta đã chứng kiến ngay từ những ngày tháng đầu tiên của Đổi Mới một sự “bừng nở”, một chữ dùng rất đắt của Lê Đăng Doanh (2001). Tuy nhiên, công cuộc tiếp tục Đổi Mới theo nghĩa đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi một “khí thế tinh thần” rõ rệt hơn nữa, một trạng thái văn hoá tinh thần giống như trong làn sóng duy tân những năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ đầu Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ những năm 1950- 1970 chống Pháp và chống Mỹ (Phạm Xanh, 2001). Gần đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kêu gọi hãy có những “Điện Biên Phủ trong kinh tế”. Không có một trạng thái tinh thần như vậy, khó có thể đạt được mục tiêu phát triển mang tính đột phá đã đặt ra. Hộp 4. Cần và có thể tạo nên một khí thế công nghiệp hóa hiện đại hóa không? “Thế hệ làm nên chiến thắng cuộc chiến tranh cứu nước nói rằng, lúc trai trẻ hàng ngày họ đi qua thành cửa Bắc và nhìn thấy hai lỗ đạn đại bác của thực dân mà thấy thấm nỗi nhục mất nước, nuôi chí giải phóng đất nước. Liệu từ nay, nếu trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày chúng ta thông báo bên cạnh giá vàng, giá USD, nhiệt độ thời tiết có thêm thông số về thứ hạng nước ta trong nền kinh tế thế giới, số tiền chúng ta đang vay nợ thì chắc chắn vì thấm nỗi nhục nghèo hèn mà chúng ta nuôi chí vươn lên. Không có động lực ấy chúng ta vẫn thoả mãn với bước đi chậm rãi, chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu!'' Dương Trung Quốc. Đừng ngồi trong nhà và đóng tất cả cánh cửa lại.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2