HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG MỘT SỐ<br />
TIỂU THUYẾT TIÊU BIỂU CHO THIẾU NHI<br />
SAU NĂM 1975<br />
BÙI THANH TRUYỀN<br />
<br />
*<br />
<br />
Cuộc đời Bác là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nghệ sĩ. Trong Lời<br />
tựa cho lần xuất bản thứ hai của cuốn tiểu thuyết Búp sen xanh1, cố Thủ<br />
tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chủ tịch sống mãi trong những<br />
tư tưởng và tình cảm lớn, trong toàn bộ hoạt động cách mạng của nhân<br />
dân Việt Nam ta, của mọi người chúng ta. Đồng thời Hồ Chủ tịch cũng<br />
sống mãi trong những tác phẩm văn học và nghệ thuật có giá trị diễn tả<br />
một cuộc đời đã trở thành lịch sử, những trang sử đẹp nhất và vẻ vang<br />
nhất của dân tộc Việt Nam ta”. Xét từ góc độ văn học, mỗi thời đoạn, do<br />
những thay đổi khách quan của đời sống xã hội, sự chuyển biến chủ quan<br />
trong nhận thức, quan niệm của người viết, đề tài anh hùng, lãnh tụ nói<br />
chung, Bác Hồ nói riêng, được nhìn nhận, tái hiện ở những phương diện<br />
không hoàn toàn giống nhau hòng đem lại cho người đọc một cái nhìn<br />
toàn diện và chân xác về vĩ nhân dân tộc. Sự gặp gỡ giữa đặc tính văn<br />
chương và lịch sử, truyền thống và hiện đại trong một số tiểu thuyết sau<br />
năm 1975 viết về tuổi trẻ của Bác trên một số phương diện nghệ thuật cơ<br />
bản mà chúng tôi đề cập dưới đây đã phần nào khẳng định sự chuyển<br />
biến về mặt thi pháp của văn học thiếu nhi Việt Nam đương đại.<br />
1. Sự hòa quyện giữa bình thường và phi thường, gần gũi và cao khiết<br />
So với giai đoạn trước, con người trong truyện và thơ cho trẻ em sau<br />
năm 1975 được nhìn nhận một cách toàn diện, mới mẻ hơn. Ngoài những<br />
phẩm chất cao cả, siêu việt, người viết còn tô đậm chất đời thường, phần<br />
nhân tính phổ quát ở họ. Không còn xa lạ, chói chang trong vầng hào<br />
quang thần tượng mà gần gũi như kiểu “một người lạ đã quen biết”, nhờ<br />
thế, nhân vật dễ được sự đón nhận, đồng cảm và yêu thích của trẻ nhiều<br />
hơn. Hai tiểu thuyết Búp sen xanh (BSX) và Bông sen vàng (BSV)2 của<br />
Sơn Tùng là một thể nghiệm thành công cho khuynh hướng tích cực,<br />
hiện đại này.<br />
*<br />
<br />
TS. Trường Đại học Sư phạm Huế.<br />
Sơn Tùng (2005), Búp sen xanh (in lần thứ 14), Nxb. Kim Đồng, Hà Nội.<br />
2<br />
Sơn Tùng (2007), Bông sen vàng, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội.<br />
1<br />
<br />
Hình tượng Bác Hồ trong…<br />
<br />
107<br />
<br />
Xuất phát từ quan niệm “viết văn tức là đi chép việc, cống hiến cho<br />
bạn đọc, nên viết về Bác thì phải quan tâm sưu tầm những câu chuyện về<br />
Bác”, cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm của nhà văn trong<br />
hai tác phẩm đã được Nguyên Ngọc chỉ ra: “Sơn Tùng không viết những<br />
điều vĩ đại, phi thường của Hồ Chí Minh, mà viết những góc riêng tư,<br />
nhân văn của Cụ”3. Với quan niệm, cách làm ấy, tác giả đã nhận thấy sự<br />
thống nhất giữa hai tính cách thoạt nhìn ngỡ như là đối lập trong nhân<br />
vật. Trước hết là cách khắc họa hình tượng theo lối truyền thống - tái<br />
hiện những nét đặc trưng về ngoại hình, nội tâm có tính chất dự báo một<br />
con người, một nhân cách lớn của tương lai như: bẩm sinh thông minh,<br />
sáng láng: “Có cái bụng sáng hơn đèn”, “mau biết đến cả việc mà người<br />
lớn lắm khi chưa kịp nghĩ tới”, “có thiên tư đặc biệt từ năm lên ba”; giỏi<br />
lập luận: “Nói cách chi nghe đều xuôi cả”; có thiên tư “lãnh noãn tự tri”<br />
(ấm lạnh tự biết – tức không chờ phải nói mà lòng tự biết nói); có triển<br />
vọng “ngôn hành tương cố” (nói đi đôi với làm); ham học hỏi, hiểu biết:<br />
“Đã hỏi thì hỏi đến nơi”, “có thể mặc áo vá, để đầu trần, đi chân đất, ăn<br />
cháo, ăn rau, nhưng cháu không thể nhịn học, nhịn xem sách, nhịn nghe<br />
những chuyện bổ ích”; có năng khiếu hội họa, văn học: “Biết nhận xét,<br />
biết thưởng thức nghệ thuật,… có năng khiếu nghệ thuật thật sự”, “một<br />
thi nhân chân cảm”; lắm tài: “Luyện được cả giống mèo cá để trước<br />
miệng mà không kêu, không sấn vô cắp chạy”; bạo dạn hơn cả người<br />
lớn: “Một mình đi đêm nỏ sợ ma”; sớm có óc “kiến kim chi cổ” v.v…<br />
Còn ngoại hình thì như một tiên đồng giáng thế: “Cậu ấy người thanh<br />
mảnh, mười ngón tay thon dài như mười búp măng, da trắng như trứng<br />
gà bóc, mặt vuông tượng, hai con mắt sáng như hai ông sao, lông mày<br />
dài hơn mắt, đúng là mày ngài mắt phượng, trán trượng phu. Môi lại đỏ<br />
chon chót như nhuộm phẩm điều, mũi cao thon thon, nhưng không nhọn,<br />
không quắm như mũi tây đoan”. Quả là “một đứa bé chưa đến tuổi lên<br />
mười mà có một phong thái, một khí phách lớn”. Điều đó khiến cho bao<br />
người lớn phải bất ngờ, nghi hoặc, bối rối xen lẫn yêu thương, thán phục<br />
và tràn đầy hi vọng: “Đây là Nguyễn Sinh Côn hay là Hoài Văn Hầu<br />
Trần Quốc Toản bóp nát quả cam, tay cầm lá cờ thêu sáu chữ: “Phá<br />
cường địch báo Hoàng ân” từ miền lịch sử Bình Than hiện về chất vấn<br />
<br />
3<br />
<br />
Nhà văn Sơn Tùng (2009), “Nếu không làm được phúc thì đừng gieo họa”…, Văn nghệ, Số<br />
12 (21/ 3), trang 4.<br />
<br />
108<br />
<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011<br />
<br />
các ông!”. Cậu bé ấy sẽ là "người gánh trọng trách của thế kỉ sau”; “là<br />
thế hệ được trao chìa khóa vàng mở cửa thế kỉ XX ở đất nước này”.<br />
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác giả BSX, BSV sẽ không tạo được chỗ<br />
đứng riêng bởi tác phẩm chỉ là sự nối dài không mấy cách tân so với<br />
những người đi trước. Ấn tượng sâu đậm mà Nguyễn Sinh Côn để lại<br />
trong độc giả là những suy nghĩ, hành động, tình cảm rất đỗi con người.<br />
Cũng hiếu động, “nghịch trổ trời” như bao đứa trẻ cùng trang lứa: “Trèo<br />
cau lấy bẹ để làm thuyền”, “trèo cây thị hái quả ương”, “leo cả lên hồi<br />
nhà tìm chim sẻ đã sẩy chân giẫm lên bệ bát cổ của bà, làm vỡ một lúc<br />
chục cấy (cái) đĩa bạt trúc hóa rồng”, rủ bạn trốn học đi câu cá, hay rủ<br />
đám trẻ trong xóm đi trêu chó để chúng sủa om sòm, bị láng giềng đến<br />
nhà la mắng cả bà ngoại v.v… (BSX). Người đọc sẽ thú vị và cảm thấy<br />
gần gũi khi gặp ở đây một cậu bé Côn hồn nhiên, thơ ngây trong trò chơi<br />
con trẻ: “Côn núp trong bóng tối chạy ra “vồ” vào lưng mẹ, “hừ” một<br />
tiếng! Chị cử Sắc hơi giật mình. Côn cười sằng sặc”, trong những cái<br />
mẹo chợt nghĩ ra với mong muốn mang lại cho mẹ niềm vui bất ngờ:<br />
“Côn ghé vào nhà Đầu - Trái - Bưởi, mượn bộ quần áo vá nhiều miếng,<br />
lại còn lấy dây buộc túm chéo một cách lôi thôi. Côn mặc trùm nó ra<br />
ngoài bộ quần áo đang mặc trong người. Đầu đội cái nón mê, đeo bên<br />
hông một cái bị cũ kĩ, mặt mũi, bàn tay, bàn chân bôi lọ lem luốc, tay<br />
cầm gậy đi về nhà. Côn cũng vờ đi cà nhắc một cách thiểu não”, trong<br />
những lời “nói nũng với cha”, trong lối sống hòa đồng, giản dị: “Còn bé<br />
thơ, con một ông cử nhân, một ông thầy học nổi tiếng mà cậu đối xử, ăn<br />
ở bình dân với mọi người hàng xóm, láng giềng”, trong từng cách ứng xử<br />
tế nhị với bạn bè: “Chơi với bạn có lúc đã quên để tâm về bạn còn đang<br />
thua thiệt hơn mình mà mình cứ nhâng nhâng tuy không cố ý thì cũng là<br />
vô tâm”, trong cái nết thực thà, tốt bụng với mọi người: “Học được chữ<br />
cũng đem chia chữ cho bạn, vô kinh đô cũng lo lắng đem phần quà<br />
chuyện lạ về cho bà, cho dì, cho chị, cho bạn ở quê nhà”... Côn cũng là<br />
cậu bé giàu lòng thương người, thường “làm phúc cho người nghèo, lén<br />
xúc gạo, khoai lát đem cho”, dạt dào tình cảm, hay xúc động: “đọc sách<br />
Nhị thập tứ hiếu cũng trào nước mắt”, sống chân thành, thủy chung bè<br />
bạn: “Tình đồng môn có khi hơn cả tình đồng tộc”, hiếu thảo vô cùng với<br />
mẹ cha và biết lo lắng, thương yêu em rất mực... Chỉ một chi tiết rất bình<br />
thường trong BSX, người đọc cũng nhận ra sự chín chắn, sớm trưởng<br />
thành ở cậu bé còn trong tuổi đánh khăng, đánh đáo này: “Con… con có<br />
thèm chè ngọt cha ạ. Nhưng… con nỏ thích ăn ở dọc đường mô. Về nhà<br />
mệ nấu chè cho con ăn, thích hơn”. Những tháng năm vào đời trên đất<br />
<br />
Hình tượng Bác Hồ trong…<br />
<br />
109<br />
<br />
cảng Sài Gòn, “làm việc gò xương sống, vẹo xương sườn, mà còn bị đòn<br />
roi, đá đít, bạt tai chẳng khác gì thân trâu ngựa”, tình yêu đầu đời đã<br />
chớm nở ở Thành, bất chấp sự thù địch, khắc nghiệt của hoàn cảnh<br />
không “hơn kiếp con vật là bao nhiêu”. Điều đó bộc lộ rất rõ qua những<br />
câu nói nghẹn ngào với Út Huệ: “Tôi không ở đây nữa… Mai sớm, tôi…<br />
đi… xa…”, qua tâm trạng của chàng trai xứ Nghệ khi con tàu sắp rời<br />
Bến Nhà Rồng: “Anh Ba bất chợt nhìn Út Huệ, nhìn con tàu. Anh rùng<br />
mình. Một luồng giá lạnh từ đỉnh đầu xuống gan bàn chân như phân chia<br />
con người anh làm hai”. Sự song hành, hòa quyện giữa hai phẩm chất<br />
bình thường - phi thường đó, nói như nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội<br />
Châu, là “điều đáng quý” ở nhân vật. Nhờ vậy mà Côn (cũng như<br />
Nguyễn Tất Thành sau này) luôn có được một phong thái đặc biệt: hòa<br />
vào mọi lớp người mà vẫn không lẫn.<br />
Trong Cha và con (CVC)4 của Hồ Phương, cậu thiếu niên Nguyễn<br />
Sinh Côn như khôn trước tuổi. Những suy nghĩ của cậu thể hiện sự<br />
chững chạc, giàu lòng nhân ái, sớm có những trở trăn rất người lớn:<br />
"Trong đêm nghe tiếng khóc từ xa vọng lại, nghe rất não nề, ai oán. Côn<br />
ngồi lặng đi... Tiếng khóc xé ruột kia đã làm cho cậu rối cả tâm can. Cậu<br />
nằm bên bà, mắt cứ chong chong gần như suốt đêm. Đó chính là tiếng<br />
khóc của những bà, những chị có chồng, có con bị bắt đi phu”. Đi xem<br />
cải lương, nhìn cô gái sắm vai Kiều Nguyệt Nga hao hao như Phượng<br />
Quý, bao hình ảnh của những ngày tháng ở Huế hiện về vẹn nguyên,<br />
sống động trong lòng cậu: "Ôi, tưởng đã quên... Phải, tưởng rằng đã<br />
quên... Cả một trời Dương Nổ và Huế bỗng như oà mở trên đầu, trước<br />
mặt Côn với biết bao kỉ niệm ngọt bùi xưa kia với cha, mẹ, với anh<br />
Khiêm,... và tất cả các bạn khác nữa, mà trong đó hiển nhiên không thể<br />
thiếu Phượng Quý... Phượng Quý ơi, bây giờ bạn ở đâu, đang làm gì?<br />
Cha ơi, lúc này cha đang sống trong mọi nỗi buồn đau khổ - con biết nhưng cha đang ở đâu, còn ở Huế hoặc họ đã đuổi khéo cha đi khỏi kinh<br />
thành?" Sự phối kết giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, việc sử dụng<br />
lăng kính đời thường để tái hiện chân dung nhân vật là một nét độc đáo<br />
trong bút pháp trần thuật của tiểu thuyết thiếu nhi đương đại, một tiếng<br />
nói đa thanh, cởi mở, dân chủ của văn xuôi thời Đổi mới.<br />
Cũng với BSX, BSV, Sơn Tùng đã làm mới một quan niệm đã có từ<br />
trước: Nhân cách, tương lai con người được hình thành từ một nền tảng<br />
4<br />
<br />
Hồ Phương (2007), Cha và Con, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội.<br />
<br />
110<br />
<br />
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011<br />
<br />
vững vàng. Nền tảng ấy chính là gia đình, dòng tộc và môi trường văn<br />
hóa - lịch sử in hằn dấu ấn thời đại. Một thiên bẩm không phải ở một thế<br />
giới xa xôi huyền bí nào mà từ trong nòi giống của các bậc hiền tài ấy tạo<br />
thành; rồi sớm được nuôi dưỡng, dạy dỗ, lớn lên có chí học, chí hành<br />
mới thành vĩ nhân được. Nguyễn Sinh Côn là minh chứng sinh động cho<br />
quan niệm này. Cậu bé ấy được sinh ra trong một gia đình “vừa có gia<br />
phong, vừa có gia giáo”, “giàu chữ lại giàu cả nhân đức nữa”, “có một<br />
nếp sống thanh cao và trí tuệ”. Mẹ cậu - người phụ nữ “thảo hiền, thương<br />
người như thể thương thân. Có một miếng ăn ngon, bà cũng bớt ra chia<br />
sớt với bà con láng giềng. Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, bà chìa tay giúp<br />
đỡ trong tình lá lành đùm lá rách” - luôn lấy câu “giấy rách giữ lấy lề” để<br />
khuyên dạy con mình: “Từ trước tới giờ mẹ tôi không cho anh em tôi<br />
nhận bất cứ món quà nào dầu nhiều dầu ít của ai khi chưa được cha mẹ<br />
cho phép”. Ông Nguyễn Sinh Sắc, cha Côn, là một người nghiêm khắc<br />
mà độ lượng: “Ái chi năng vật lao hồ. Đôn hậu dĩ sùng lễ” (yêu con há lẽ<br />
không hướng cho con biết chịu khó, biết làm dày nền phúc và tôn trọng<br />
điều lễ). Sớm nhận ra những điều đáng quý ở con mình nên ông đã hết<br />
lòng “chú ý rèn cho Côn sớm phát triển thiên tư”, “dưỡng tử giáo độc<br />
thư, thư trung hữu kim ngọc” (nuôi con phải biết dạy con đọc sách, vì<br />
trong sách có vàng ngọc), “chuyên tâm cho việc dạy cháu Côn học với<br />
trọng trách: dưỡng tinh súc nhuệ” (nuôi dưỡng sự tinh anh, dùi mài nhuệ<br />
khí để rồi gánh vác việc lớn). Ông cũng là người luôn luôn tâm niệm<br />
“phải tạc ngay vào tâm trí các con những bức tranh lịch sử bi tráng của<br />
quê hương, của đất nước ở cái thời mà ta chứng kiến, ta nghe, ta lượm lặt<br />
gom góp được” để khơi gợi ở con trẻ tình cảm và trách nhiệm đối với đất<br />
nước, dân tộc. Chính gia đình là khởi thủy tạo nên tính cách của mỗi<br />
người, đã tạo khắc vào con người những nguyên tắc đầu tiên của cuộc<br />
đời. Tinh hoa gia đình thanh cao và cả cái dấu ấn dân tộc hào hùng đã<br />
hợp thành dưỡng chất nuôi lớn nhân cách của Bác ngay từ thuở còn thơ.<br />
Đây cũng chính là một chủ ý của các tác giả nhằm tô đậm quan niệm rất<br />
mới mẻ nhưng cũng rất xưa cũ của văn hóa, văn học dân tộc: vĩ nhân,<br />
bên cạnh những điều phi thường, cũng chính là một con người bằng<br />
xương bằng thịt, được kết tinh từ truyền thống gia đình, tình làng nghĩa<br />
xóm, sức mạnh cộng đồng và thời đại.<br />
Tương tự như thế, Hồ Phương, trong CVC, cũng đã dành nhiều trang<br />
viết tâm huyết, sắc sảo để làm nổi bật vai trò, sự ảnh hưởng tích cực của<br />
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong quá trình bồi đắp, phát huy những<br />
phẩm chất tốt đẹp của cậu bé Côn để hình thành nhân cách, lí tưởng, bản<br />
<br />