intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

76
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trình bày các nội dung chính sau: Thực hiện chính sách phát triển du lịch hiện nay: Một số vấn đề lý luận; Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay; Mục tiêu và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THANH TRÚC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THANH TRÚC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. CAO THU HẰNG HÀ NỘI, 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử và văn hóa, là một trong những điểm sáng về du lịch bởi có nhiều lợi thế do thiên nhiên mang lại, có nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc. Xác định vai trò quan trọng của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phát triển du lịch. Gần đây nhất, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 16/01/2017 “Về phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Nghị quyết khẳng định vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển đất nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam [2,tr.1]. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu “đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững” như Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII [13] đề ra, được đánh giá là một trong bốn trục chiến lược phát triển kinh tế du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long là Cần Thơ - Kiên Giang - An Giang - Cambodia, với nhiều di tích văn hóa lịch sử được xếp hạng và lễ hội cấp quốc gia “Vía Bà Chúa xứ núi Sam” nổi tiếng, trong những năm qua, Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang đã đề ra các chương trình, kế hoạch… liên quan đến du lịch, chính sách phát triển du lịch của địa phương, thu hút trên 4 triệu lượt khách du lịch hàng năm, tạo việc làm cho người dân, tăng ngân sách cho thành phố,… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc còn nhiều bất cập, hạn chế và chưa phù hợp. Việc quảng bá, mời gọi đầu tư phát triển du lịch hiệu quả thấp; sản phẩm du lịch chưa đa dạng. Hoạt động du lịch của các doanh nghiệp, cá nhân còn 1
  4. manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Cơ sở dịch vụ du lịch chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là vào những mùa cao điểm hoặc có tổ chức các sự kiện lớn; cung cách phục vụ thiếu tính chuyên nghiệp, dịch vụ phụ trợ chất lượng thấp. Tình trạng cò mồi, chèo kéo làm phiền hà du khách. Công tác đào tạo cán bộ quản lý du nhất là trong lĩnh vực du lịch còn hạn chế. Trong bối cảnh nói trên, việc triển khai nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang”, làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thàn phố là có tính thời sự, ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay, từ các cách tiếp cận khác nhau, đã có một số nghiên cứu, bài viết của các tác giả, nhà quản lý về phát triển du lịch trên các địa bàn khác nhau. Có thể kể đến các công trình, như Xây dựng khung chính sách du lịch có trách nhiệm (Vũ Quốc Trí, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2, 2015) khẳng định “Sự phát triển nhanh chóng của ngành Du lịch Việt Nam đã mang lại những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội và đưa Việt Nam trở thành một điểm du lịch quan trọng được nhiều du khách quốc tế biết đến. Cùng với đà tăng trưởng nhanh chóng và những kết quả đạt được, tầm quan trọng của sự phát triển bền vững của ngành được ghi nhận là yếu tố cần thiết để mang lại sự thành công cũng như các lợi ích trong tương lai. Trong khi phát triển du lịch bền vững là định hướng bao trùm trong chính sách của nhà nước hiện nay, thì việc đưa các nguyên tắc phát triển du lịch có trách nhiệm vào hành động là con đường để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững”; Công trình Đưa chính sách phát triển du lịch vào cuộc sống (Nguyễn Văn Lưu, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12, 2015) có nêu “Những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách và cơ chế để thúc đẩy du lịch phát triển với vai trò kinh tế mũi nhọn. Theo tác giả, chính sách phát triển du lịch là tập hợp các chủ trương và hành động của Nhà nước để đấy mạnh phát 2
  5. triển du lịch bằng cách tác động vào việc cung cấp và giá cả của các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng); tác động tới giá sản phẩm du lịch; tác động đến số lượng khách du lịch; tác động việc thay đổi tổ chức và năng lực của nguồn nhân lực du lịch; tác động vào việc chuyển giao công nghệ du lịch... Hai vế quan trọng của chính sách là chủ trương và hành động, chủ trương tốt và hành động quyết liệt sẽ đảm bảo chính sách thành công”; Công trình Thực trạng nghiên cứu chính sách du lịch và kinh nghiệm cho Việt Nam (Trần Thị Hồng Hạnh, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 405, tháng 3- 2018) nhận định rằng “Ý nghĩa của du lịch đối với một quốc gia là không thể phủ nhận trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Để có thể phát huy được những hiệu quả mà ngành mang lại cũng như khắc phục tác động xấu do ngành gây ra, việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu chính sách du lịch là một yêu cầu cần thiết khách quan”; Công trình Phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam: một số gợi ý chính sách (Nguyễn Đức Tân, Tạp chí Tài chính, số 637, tháng 7 năm 2016) khẳng định “Trong xu thế phát triển du lịch chung, du lịch Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen. Diễn biến kinh tế, chính trị, an ninh thế giới có tác động mạnh hơn, khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện. Những thách thức trên đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch với lợi thế quốc gia và sự độc đáo của văn hóa dân tộc, để khẳng định mình trong quá trình hội nhập du lịch quốc tế và cạnh tranh toàn cầu. Để đảm bảo phát triển lâu dài, sản phẩm du lịch cần được sắp xếp, tổ chức phát triển để tạo nên các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, có tính đặc thù rõ nét; Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch liên quan đến các loại hình du lịch có thế mạnh của Việt Nam như du lịch biển, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng...”;… Các công trình này đều khẳng định vai trò quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước, cũng như các địa phương; khẳng định sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch nhằm tránh một 3
  6. số tác động không mong muốn của hoạt động du lịch đối với xã hội, như ô nhiễm môi trường, gây hỏng các di sản văn hóa vật thể, các tệ nạn xã hội xuất hiện… Các nghiên cứu liên quan đến chính sách phát triển du lịch ở An Giang nói chung, Châu Đốc nói riêng, có thể kể đến một số bài viết sau: Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Duyên khẳng định, trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, hoạt động du lịch An Giang nói chung, Châu Đốc nói riêng đã có những bước chuyển mình cả về chất lượng và số lượng. Ngành du lịch từng bước có chuyển biến tích cực hơn và thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội, từ đó đã có khá nhiều nghiên cứu quan tâm đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh An Giang, là vùng đất với phong cảnh thiên nhiên đặc sắc, là nơi sinh sống, hội tụ những tinh hoa văn hóa độc đáo của đồng bào các dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Khmer,… mang đậm nét văn hóa tín ngưỡng tâm linh với các Lễ hội phong phú, trong đó nổi tiếng nhất là Lễ hội vía Bà Chúa xứ Núi Sam, cùng nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh nổi tiếng và được đánh giá là điểm đến lý tưởng của du khách [10]. Đánh giá về kết quả hoạt động du lịch và việc khai thác du lịch trên địa bàn tỉnh An Giang trong những năm qua cũng được nhận định khá cụ thể và xác định tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, di tích văn hóa lịch sử, danh lam thắng cảnh là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, do nguồn lực của tỉnh còn hạn chế nên việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch chưa đồng bộ; cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch đã ban hành nhưng triển khai còn chậm; sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch còn hạn chế; công tác xúc tiến quảng bá chưa chuyên nghiệp; các khu, điểm du lịch trọng điểm bước đầu đã xây dựng thương hiệu nhưng năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chưa có tính bền vững; công tác quản lý nhà nước còn thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng chèo kéo, mê tín, mất an ninh trật tự vẫn còn xảy ra tại các khu, điểm du lịch… Từ 4
  7. đó, các tác giả đã đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm phát triển du lịch tỉnh An Giang đạt hiệu quả cao và bền vững [1]. Tác giả Nguyễn Phú Thắng [36] trong bài viết “Hoạt động du lịch tỉnh An Giang giai đoạn 2001 - 2011: Thực trạng và một số giải pháp”, đã phân tích, tổng kết đánh giá khá toàn diện hoạt động du lịch tỉnh An Giang giai đoạn 2001 – 2011 và cho rằng, du lịch An Giang đã phát triển mạnh mẽ với sự gia tăng số lượng khách du lịch và đa dạng hoá các loại hình du lịch. Tuy nhiên, trở ngại để phát triển du lịch bao gồm chất lượng lao động kém, cơ sở hạ tầng không đầy đủ và thiếu những phương thức quảng bá phù hợp. Từ đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp để khắc phục những vấn đề cụ thể như: (1) hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước về du lịch; (2) xây dựng và hoàn thiện các sản phẩm du lịch đặc thù; (3) đẩy mạnh công tác quảng bá du lịch; (4) thúc đẩy công tác đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch; (5) tổ chức quy hoạch du lịch với các dạng tài nguyên và bảo vệ môi trường. Phân tích những tác động của du lịch đến kinh tế và môi trường, tác giả Phạm Văn Cao [3, tr.28 - 29] đề cập đến những tác động tích cực của khu du lịch Núi Sam đã mang lại cho lĩnh vực kinh tế và môi trường của tỉnh An Giang như: (1) tạo việc làm và tăng thu nhập; (2) sự hòa nhập vào nền kinh tế thị trường; (3) mở rộng sự hiểu biết về nhu cầu văn hóa xã hội, cũng như những rào cản giữ các dân tộc; (4) góp phần nâng cao ý thức của người dân về việc giữ gìn môi trường xã hội văn minh cũng như hệ sinh thái tự nhiên cho khu du lịch. Bên cạnh, tác giả Phạm Xuân Phú [25, tr.4 - 9] và các cộng sự đã phân tích việc đóng góp của du lịch và cộng đồng cho xóa đói giảm nghèo ở tỉnh An Giang, giúp cho sự phát triển du lịch dựa vào cộng đồng phát triển hiệu quả và bền vững hơn. Một số nghiên cứu đã rất quan tâm đưa các giá trị di sản văn hóa, lịch sử, phát triển các nghề thủ công vào phục vụ du lịch ở tỉnh An Giang [14, tr.58 - 59]. Từ đó, tạo nên môi trường du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo, hấp dẫn kỳ lạ và lực hút hội tụ khách du lịch khắp cả nước và quốc tế. 5
  8. Quan tâm đến mô hình tổ chức lãnh thổ du lịch An Giang theo hướng phát triển bền vững, tác giả Cao Quốc Tuân [32] cho rằng với vị trí quan trọng về mặt địa lý cũng như vị trí trong nền kinh tế khu vực, tài nguyên du lịch phong phú, An Giang cần tổ chức các loại hình du lịch chủ yếu như sau: (i) du lịch công vụ, thương mại, hội nghị, hội thảo, triển lãm; (ii) du lịch tham quan, nghiên cứu sông nước đồng bằng sông Cửu Long; (iii) du lịch văn hóa lễ hội và tâm linh; (iv) du lịch nghỉ dưỡng thể thao, vui chơi giải trí; (v) du lịch sinh thái, cắm trại. Như vậy, theo định hướng phát triển du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và định hướng phát triển du lịch, kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, có thể thấy các định hướng này đều tập trung phát huy các thế mạnh của địa phương để xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững. Trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, với tiềm lực về cơ sở vật chất kỹ thuật và một đội ngũ doanh nghiệp du lịch đang ngày càng phát triển, việc hoàn thiện bộ máy tham mưu, quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh An Giang là cần thiết hơn bao giờ hết. Tác giả Nguyễn Thị Phi Phượng [26, tr. 22 - 23] quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch tỉnh An Giang có kỹ năng và chuyên nghiệp. Điều này giúp thúc đẩy xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển du lịch, cũng như tổ chức quản lý hoạt động du lịch được đồng bộ, hiệu quả, phù hợp thực tế, phát huy được tiềm năng thế mạnh, thật sự đưa tỉnh An Giang trở thành một trong những trung tâm du lịch của khu vực đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Nghiên cứu gần nhất và trực tiếp đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của thành phố Châu Đốc, tác giả Tô Minh Châu [4] đề cập đến việc phát triển khu du lịch Núi Sam, thành phố Châu Đốc về lợi thế, thực trạng, mức độ khai thác, chỉ ra những bất cập, hạn chế và từ đó đề xuất những định hướng, giải pháp nhằm phát triển bền vững Khu du lịch Núi Sam ngày càng hiệu quả. Có thể nói, cho đến nay cũng có nhiều tác giả đã nghiên cứu về khai thác tiềm năng phát triển du lịch An Giang trong đó có Châu Đốc. Việc phát triển du lịch tại thành phố Châu Đốc phải gắn với việc bảo vệ tài nguyên thiên 6
  9. nhiên, danh lam thắng cảnh; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân; phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch mùa nước nổi; xây dựng các sản phẩm du lịch phục vụ du khách… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào - được tiếp cận từ góc độ chính sách công, đã công bố liên quan đến đề tài trên cả khía cạnh lý luận và thực tiễn có giá trị cũng như đề cập và phân tích dưới góc độ thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đã có, kết hợp với khảo sát thực tế ở địa bàn nghiên cứu - thành phố Châu Đốc, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trong giai đoạn phát triển mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ và thực tiễn thực hiện chính sách phát triển du lịch, đề tài đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch. - Phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. 7
  10. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang - Phạm vi về không gian: địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang - Phạm vi về thời gian: từ năm 2016 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng về phát triển du lịch từ tiếp cận của chuyên ngành chính sách công. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, chủ yếu là các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các báo cáo, tạp chí khoa học, tác phẩm khoa học, giáo trình, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng các phương pháp phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, … 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch. Kết quả đánh giá nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ, minh chứng cho các lý thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đã ban hành. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. 8
  11. Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện chính sách phát triển du lịch cũng như bất cứ ai có quan tâm đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Thực hiện chính sách phát triển du lịch hiện nay: Một số vấn đề lý luận Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay Chương 3: Mục tiêu và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay 9
  12. Chương 1 THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1. Du lịch Có nhiều quan điểm khác nhau về du lịch. Theo đó, có quan niệm cho rằng, du lịch “là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác” [39,tr.8]. Quan niệm khác cho rằng, du lịch là “việc cung ứng và làm marketing cho các sản phẩm và dịch vụ với mục đích đem lại sự hài lòng cho du khách” [35,tr.17] . Như vậy, về cơ bản, du lịch được hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng, tham quan, khám phá… những địa điểm có di sản, di tích và danh thắng nổi tiếng, nơi có nền văn hóa dân tộc đặc sắc trong thời gian nhàn rỗi. Theo Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 của Việt Nam quy định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác” [27]. Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu. Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm 2 nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên. Ngoài cách phân loại như trên, còn có phân loại theo mục đích hoạt động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác....; phân loại theo lãnh thổ hoạt động thì có du lịch quốc tế, du lịch nội địa….; 10
  13. phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch thì có du lịch biển, du lịch núi...và còn nhiều cách phân loại khác nữa. Với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,… thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh tổng hợp mang lại hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch sử, văn hóa, đất nước, con người; giới thiệu, quảng bá các giá trị về nền văn hóa độc đáo của Việt Nam mấy nghìn năm văn hiến; hiệu quả về mặt kinh tế; tạo việc làm cho người lao động… Du lịch được xem là ngành công nghiệp không khói, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh các hiệu quả đạt được thì du lịch cũng tạo ra nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của các cộng đồng có nhiều du khách đến tham quan, sự quá tải về cơ sở hạ tầng,… Chính vì lẽ đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển. 1.1.2. Chính sách phát triển du lịch Để có thể hiểu được chính sách phát triển du lịch, cần thiết phải đề cập đến chính sách công. Trên thế giới nhiều tác giả đã có quan niệm khác nhau về chính sách công, như William N. Dunn cho rằng: “Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra” [48,tr.51]. James Anderson đưa ra định nghĩa: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” [19,tr.5]. Tác giả William Jenkin lại đưa ra khái niệm: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó” [49,tr.18]. 11
  14. Xuất phát từ thực tiễn nước ta, Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [40]. Tuy có nhiều cách cách tiếp cận khác nhau nhưng các tác giả đều tập trung vào một trong những đặc trưng quan trọng của chính sách công như: (1) Chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; (2) Chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau; (3) Các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn; (4) Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định; (5) Xét theo nghĩa rộng, chính sách công bao gồm những việc nhà nước định làm và không định làm; (6) Chính sách công tác động đến các đối tượng của chính sách; (7) Chính sách công được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng hoặc của quốc gia. Trên cơ sở cách hiểu về chính sách và du lịch, có thể thấy rằng, chính sách phát triển du lịch là các quyết định của nhà nước nhằm phát triển du lịch nhanh và bền vững, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch; đảm bảo sự gắn kết hài hoà giữa du lịch với kinh tế, xã hội và môi trường. Chính sách phát triển du lịch bao gồm các nội dung cơ bản sau: - Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch Chính sách phát triển du lịch được ban hành nhằm thúc đẩy các hoạt động du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch phát triển các hoạt động liên quan đến du lịch. Đối tượng của chính sách bao gồm khách du lịch, cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp lữ hành, các tổ chức, cá nhân… 12
  15. - Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch Nghị quyết Đại hội XII của Đảng năm 2016 nêu rõ: “Có chính sách phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên ngành cao. Tạo mọi thuận lợi vế thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và đảm bảo an toàn, an ninh. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và giữ gìn vệ sinh môi trường, phát triển các khu dịch vụ, du lịch phức hợp, có quy mô lớn và chất lượng cao” [12]. Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đây là một tiền đề rất quan trọng trong việc phát triển du lịch của nước ta. Điều này thể hiện quan điểm, mục tiêu rất rõ ràng của Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí, tầm quan trọng của ngành du lịch trong phát triển kinh tế hiện nay, góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác [2]. - Giải pháp của chính sách phát triển du lịch Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Và Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” với mục tiêu “Đến năm 2030, Việt Nam trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới, du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững” [37]. 13
  16. Từ những quan điểm, mục tiêu lớn như trên, nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cụ thể như sau: Thứ nhất, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy phát triển du lịch, tổ chức cơ cấu lại ngành du lịch với tính chuyên nghiệp cao, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của ngành du lịch sao cho phù hợp với xu thế hiện nay. Thứ hai, cần hoàn thiện thể chế chính sách, tạo động lực mới cho du lịch phát triển. Thứ ba, chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch địa phương, tạo ra các sản phẩm mới, hấp dẫn, thu hút du khách. Thứ tư, tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch mang tính chuyên nghiệp và tính liên kết vùng trong du lịch. Thứ năm, huy động các nguồn lực đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch. Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công và ngoài xã hội cho du lịch. Thứ bảy, phát triển du lịch phải gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên du lịch, các giá trị văn hóa và lịch sử dân tộc [2]. - Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch Chính sách phát triển du lịch thực hiện theo nguyên tắc cơ bản là phát triển du lịch bền vững theo quy hoạch, kế hoạch có trọng điểm và chọn lọc; phát triển du lịch phải gắn với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, tăng cường liên kết vùng; quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; bảo đảm lợi ích cho cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch [27]. - Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch Nhà nước tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng giao thông tại các khu du lịch quốc gia, các khu vực có tiềm năng du lịch; đầu tư điểm dừng, nghỉ chân cho du khách; nâng cấp, mở rộng, xây dựng cảng hàng không, cảng biển, cảng thủy nội địa chuyên dụng cho khách du lịch; đầu tư các trung tâm tổ chức hội nghị, triể lnãm, mua săm, thể thao, khu vui chơi, giải trí quy mô lớn, hiện đại. 14
  17. Nhà nước có chính sách huy động, thu hút mọi nguồn lực xã hội, nhà đầu tư có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đặc biệt là cơ sở lưu trú, cơ sở vui chơi giải trí, khu nghĩ dưỡng phức hợp cao cấp…cho phát triển du lịch đảm bảo đảm du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước [27]. - Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch Các cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch bao gồm: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về du lịch; các Bộ và cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch; Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; UBND huyện, thị, thành tùy theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước tại địa phương, cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế địa phương [27]. - Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch Xác định thời gian thực hiện là yêu cầu cần thiết đối với một chính sách Tùy theo tình hình thực tế tại địa phương mà chính quyền các cấp có thể xây dựng chính sách phù hợp: dài hạn hoặc trung hạn hoặc ngắn hạn để đảm bảo tính hiệu quả khi thực hiện chính sách. Tóm lại, trong Điều 5 Luật Du lịch số 09/2017/QH14 ngày 19/6/2017 đã nêu chính sách phát triển du lịch bao gồm các nội dung từ khâu lập quy hoạch, xây dựng hệ thống chính sách, huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch, xúc tiến du lịch, xây dựng thương hiệu, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát triển sản phẩm du lịch…[27] góp phần hình thành một hệ thống đồng bộ những chủ trương thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với 15
  18. sự phát triển chung của du lịch, đáp ứng mong muốn của nhân dân và theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước ta. 1.1.3. Thực hiện chính sách phát triển du lịch Một chính sách khi được hoạch định bao giờ cũng hướng tới giải quyết một vấn đề cần thiết, cấp bách đang diễn ra trong đời sống xã hội để đạt được những mục tiêu nhất định, đảm bảo lợi ích của cộng đồng. Tổ chức thực hiện có vai trò quan trọng trong chu trình chính sách. Nếu thiếu giai đoạn này thì việc hoạch định chính sách sẽ không còn ý nghĩa. Theo đó, thực hiện chính sách có thể hiểu là: “quá trình đưa chính sách công vào thực hiện đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm thực hiện hóa mục tiêu chính sách công”. Với cách hiểu như vậy về thực hiện chính sách công, với tư cách một chính sách cụ thể trong chính sách công, thì có thể thấy, thực hiện chính sách phát triển du lịch chính là quá trình đưa chính sách phát triển du lịch vào thực tiễn, thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án nhằm đạt được mục tiêu đề ra. 1.2. Vai trò của thực hiện chính sách phát triển du lịch hiện nay 1.2.1. Phát triển kinh tế Ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua đã có bước phát triển rõ rệt, có nhiều tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Sự phát triển của ngành du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam….cụ thể: Năm 2015, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 7,94 triệu lượt; khách du lịch nội địa đạt 57 triệu lượt; tổng thu từ du lịch đạt 338.000 tỷ đồng; có 18.800 cơ sở lưu trú du lịch với 355.000 buồng. Đến năm 2019, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt; khách du 16
  19. lịch nội địa đạt khoảng 85 triệu lượt; tổng thu từ du lịch đạt 755.000 tỷ đồng, có 30.000 cơ sở lưu trú du lịch với 650.000 buồng. Từ năm 2015 đến năm 2019, du lịch Việt Nam ra đời hàng loạt khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp, hiện đại với sự tham gia của nhiều tập đoàn lớn, các nhà đầu tư chiến lược. Tính đến hết năm 2019, có 484 cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng từ 4-5 sao trên toàn quốc với hơn 100.000 buồng, cung cấp các dịch vụ hoàn chỉnh từ ăn, nghỉ, vui chơi, giải trí, tham quan…đã kéo dài được thời gian lưu trú và chi tiêu của du khách [41]. Có 4 loại hình sản phẩm du lịch chủ đạo: du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch đô thị, được phát triển trên 7 vùng du lịch: Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long – Tây Nam Bộ. Các loại hình sản phẩm chuyên biệt bước đầu hình thành và phát triển: du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh, du lịch mạo hiểm, du lịch chữa bệnh… Với những điều đã trình bày trên đây, có thể thấy, việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đã góp phần quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, tăng ngân sách cho địa phương và thu nhập cho người dân. 1.2.2. Tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội Cùng với việc thu hút một lượng lớn khách du lịch, thì kéo theo đó là các ngành/ dịch vụ phục vụ cho dục lịch phát triển. Đó là sự phát triển các cơ sở đào tạo. Hiện nay, cả nước có 192 cơ sở đào tạo du lịch trong đó có 62 trường Đại học, 55 trường Cao đẳng và 75 trường trung cấp, nghề. Năm 2019, lao động được đào tạo về du lịch chiếm khoảng 45% trên tổng số lao động, tạo việc làm cho hơn 860.000 lao động trực tiếp trong tổng số 2,5 triệu lao động. Đó là giải quyết bài toán công ăn việc làm cho những người dân ở những vùng sâu, vùng xa (thu hút khách du lịch mạo hiểm; du lịch trải nghiệm -homestay); những người dân ở các điểm du lịch. 1.2.3. Góp phần bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2