intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình ngữ văn 7

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

42
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với mục tiêu nhằm đưa luồng gió mới được đóng góp một phần kinh nghiệm cùng với đồng nghiệp nhằm bồi đắp tình cảm, giáo dục kỹ năng sống về tình yêu gia đình và tình yêu quê hương đất nước cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình ngữ văn 7

  1. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Năm tháng qua đi với mọi nỗ lực và tham vọng, Tần Thủy Hoàng không thể nào ngăn   cản dấu ấn của thời gian trên Vạn Lý Trường Thành. Gạch đã mục, cỏ hoang đã mọc,  trường thành kia chỉ  còn là “vang bóng của một thời huy hoàng lộng lẫy”. Trong dòng  chảy thời gian hàng trăm, hàng ngàn năm có bao sự  kiện, bao chuyện đời bị  phủ  mờ,   lãng quên. Thời gian có thể  phá hủy tất cả  nhưng dường như  có một nơi thời gian   không bao giờ  bước tới. Nơi  ấy là “trường thành” trong tâm khảm người Việt Nam.  Nhất là những câu nói dân gian từ ngàn xưa vọng lại vẫn đậu mãi trong lòng mỗi người  con đất Việt, gợi nhớ gợi thương. Điều đó thể hiện rõ hơn cả qua mảng ca dao dân ca  trong chương trình Ngữ văn lớp 7. Xã hội biến động không ngừng, lòng người luôn đổi thay, đến một phút giây nào đó   trước những trắc trở, tình huống gai góc trong cuộc sống, những vấn đề cần giải đáp thì  bất chợt nhứng áng ca dao ấy lại ùa về trong ta làm sáng lên bao ý tưởng đẹp, bao gợi ý   hay. Vì sao ca dao lại có sức hút lạ  kỳ  như  vậy? Phải chăng thơ  ca trữ  tình dân gian   được sáng tác, nuôi dưỡng, lưu truyền bởi tập thể nhân dân lao động, những người chân   lấm tay bùn, một đời “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Nhân vật trữ tình trong thơ ca   dân gian là những con người bình dị, những người dân lao động chân chính. Qua con mắt  suy nghĩ và trái tim của họ, cuộc sống được phản ánh một cách chân thật và đa dạng. Vì   thế các nhà nghiên cứu đã từng đánh giá rất cao giá trị nhiều mặt của thơ ca dân gian “là  tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng”.  Nằm trong dòng văn học dân gian, ca dao như dòng suối đậm đà hồn thiêng dân tộc,   ngọt ngào hương sắc đồng quê. Xuân Diệu trong lời bạt cho sách dân ca miền Nam   Trung Bộ có viết “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như có đất, như có nước, như  có   cát, như có biển, như có mồ  hôi người, chúng ta sẽ  cảm thấy dần dần tụ lại nơi khoé   mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó là một giọt tinh tuý chắt ra từ ruột già của non sông”. Những bài ca dao là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn và bồi đắp năng khiếu  thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Là sáng tác của quần chúng nhân dân, những bài ca dao có tác   dụng giáo dục và giáo dưỡng to lớn đối với các thế hệ học sinh phổ thông. Ca dao đem  lại cho ta những hiểu biết phong phú và đa dạng về  cuộc sống của nhân dân qua các  thời đại. Đó là những kinh nghiệm sản xuất,   không tìm đến với ca dao ­ Những tác  phẩm nghệ thuật của cha ông được lưu truyền qua trường kỳ lịch sử, như cuộc trường   chinh vạn dặm. Ca dao có tác dụng giáo dục nhiều mặt nhưng chủ yếu và cốt lõi nhất   là “bối đắp tâm hồn dân tộc cho thế  hệ  trẻ”. Bởi vì ca dao cùng với văn học dân gian   chính là hồn dân tộc, là bản sắc Việt Nam. Ca dao chính là nơi thể hiện những cung bậc   ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 1
  2. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 tình cảm của người Việt Nam. Các bài ca dao của nhân dân ta tràn đầy lòng nhân ái và   lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Với tiềm năng và sức mạnh đó, ca dao sẽ  góp phần tích  cực vào việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho thế hệ trẻ, giúp họ  không tự  đánh mất mình   mà phát huy đầy đủ  năng lực, nội sinh của dân tộc trong sự  nghiệp công nghiệp hoá,   hiện đại hoá đất nước. Phát huy được sức mạnh đó trong giảng dạy ca dao  ở  nhà  trường THCS là mong muốn của các nhà Sư  phạm và các thầy, cô giáo đang trực tiếp   giảng dạy, các bậc phụ huynh học sinh.  Dạy học tốt phần ca dao sẽ không chỉ giúp học sinh hiểu về đời sống tình cảm phong  phú, đẹp đẽ  của ông cha mà qua đó còn giáo dục cho học sinh tình cảm, thái độ  đúng   đắn về gia đình, quê hương, đất nước, có cách nhìn nhận, phê phán về cái xấu, tốt trong   xã hội. học tốt ca dao học sinh sẽ có một tâm hồn phong phú, có lời ăn tiếng nói trong   sáng, tế nhị, sâu sắc.  * Điểm mới của đề tài Đã có nhiều đề tài viết về phương pháp giảng dạy ca dao, chủ yếu thiên về nội dung   và thi pháp ca dao. Làm thế nào để có thể giúp học sinh tiếp cận những bài ca dao một   cách hiệu quả nhất, đó là mong muốn của mỗi giáo viên trực tiếp đứng lớp như tôi. Bản   thân tôi qua nhiều năm giảng dạy ngữ văn 7 đã phát hiện ra rằng giáo dục thái độ  tình  cảm cho học sinh qua ca dao cũng không kém phần quan trọng trong mục tiêu dạy học.   Vì thế tôi tiếp tục nghiên cứu đề  tài “Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng  dạy ca dao trong chương trình ngữ  văn 7”. Với mong muốn đưa luồng gió mới được  đóng góp một phần kinh nghiệm cùng với đồng nghiệp nhằm bồi đắp tình cảm, giáo  dục kỹ năng sống về tình yêu gia đình và tình yêu quê hương đất nước cho học sinh.  1.2. Phạm vi của đề tài Trong chương trình ngữ văn lớp 7, phần cao dao chiếm một vị trí khá quan trọng, nội  dung đa dạng, phong phú như  những câu hát than thân, những câu hát về  tình cảm gia  đình, những câu hát về  tình yêu quê hương đất nước con người, những câu hát châm  biếm ... Song điều kiện thời gian có hạn, với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi   nội dung Những câu hát về tình cảm gia đình và những câu hát về tình yêu quê hương   đất nước con người.  Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng nghiên cứu thực hiện tại lớp 7A, 7B trường  THCS nơi tôi đang giảng dạy. ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 2
  3. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 2. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng trong việc dạy và học văn học dân gian ở lớp 7 2.1.1. Về phía người dạy Một bộ phận giáo viên hiện nay vẫn dạy ca dao với tiềm thức là văn học viết, không   đặt nó vào vốn văn học dân gian trữ tình truyền thống để khai thác, tiếp cận. Mỗi bài ca dao thường có nội dung và nghệ thuật lại đặt trong một chùm ca dao được   khai thác trong một tiết học, bởi vậy giáo viên thường bị thiếu thời gian để khai thác sâu  sắc các bài ca dao. Phổ biến nhất là cách “diễn nôm ca dao”. Với cách này, người dạy nói lại nội dung  trực tiếp của ca dao. Bằng cách giảng này thường không đem lại hào hứng học tập cho   học sinh vì nội dung giảng không có gì mới mẻ. Có người lại phức tạp hóa sự giản dị của ca dao, lôi cuốn học sinh bằng những lời lẽ  bóng bẩy, những thuật ngữ chuyên môn khiến học sinh không có những cảm xúc thực  sự cần thiết, xa rời trọng tâm. Có người lấy ca dao làm điểm xuất phát để từ đó liên hệ, liên tưởng dẫn dắt học sinh  sang những câu thơ  trong tác phẩm văn học theo sở  trường, cảm hứng tự  do của mỗi  giáo viên. Cách này lôi cuốn cả  thầy và trò, có lúc quên cả  giờ  giấc nhưng đích cuối  cùng học sinh không cảm nhận được cái hay của bài ca dao. Tôi thiết nghĩ phần nhiều giáo viên chú trọng đến khai thác nội dung, nghệ thuật của   bài ca dao mà quên mất việc giáo dục tình cảm yêu thương, kính trọng ông bà, cha mẹ,  tình anh em, lòng tự hào về quê hương đất nước, để từ đó giúp học sinh biết liên hệ và  có những rung cảm thực sự khi đến với ca dao. 2.1.2. Về phía người học ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 3
  4. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Khi tìm hiểu cụ thể từng đối tượng học sinh chúng tôi thấy đa số  học sinh chưa yêu  thích môn văn, hiểu tác phẩm văn học không sâu sắc. Tâm hồn khô khan, thờ   ơ  lạnh nhạt với mọi người xung quanh, các em ít quan tâm   đến người khác, kể cả người thân. Không vâng lời bố mẹ, ham thích trò chơi điện tử Các em không muốn hòa mình vào thiên nhiên, khép mình trước xu thế  hòa nhập,   không ham thích khám phá, tìm hiểu danh thắng, di tích lịch sử văn hóa của quê hương,  đất nước. Kỹ năng diễn đạt còn vụng, chưa thuộc nhiều ca dao. Điều kiện học tập còn nhiều hạn chế do hoàn cảnh gia đình còn vất vả, khó khăn. Dẫu biết rằng “có bột mới gột nên hồ” nên ngay từ khi nhận lớp tôi đã phân loại đối  tượng học sinh. Kết quả khảo sát về chất lượng và yêu thích học tập môn Văn vào đầu  năm như sau: a. Học sinh yêu thích môn học Yếu thích: 25% Bình thường:  33,21% Không thích: 41,79% b. Kết quả khảo sát chất lượng phần ca dao: Sĩ  Kết quả TT Lớp Giỏi Khá TB Yếu số SL % SL % SL % SL % 1 7A 38 01 2,6 11 28,9 17 44,7 09 23,7 2 7B 39 02 5,1 10 25,6 19 48,7 08 20,5 Tổng 77 03 3,9 21 27,3 36 46,8 17 22,1 ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 4
  5. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Qua khảo sát tôi thấy phần ca dao các em cũng đã được học  ở  chương trình tiểu học,  nhưng mới dừng lại ở mức độ làm quen. Từ việc khảo sát đó tôi đã vạch ra kế hoạch: Yêu cầu học sinh phải nắm chắc nội  dung, ý nghĩa và nghệ  thuật của từng bài ca  dao. Hiểu được tâm tư, tình cảm và những nguyện vọng của người dân gửi gắm trong   từng bài ca dao. Thấy được vẻ đẹp về tâm hồn, của người dân qua nghệ thuật  "Tứ  " của các bài ca   dao. Từ đó các em hiểu và cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước, con người Việt   Nam, biết tự  hào về  truyền thống của nhân dân. Biết kính trọng cha mẹ,  ông, bà, tổ  tiên, thầy cô, biết yêu thương bạn bè. Biết cảm thông chia sẽ  với những số  phận bất  hạnh. Chọn cách ứng  xử có tình, có nghĩa. Yêu cầu cao hơn, các em biết sưu tầm theo chủ  đề, vận dụng, tập sáng tác ca dao   theo thể thơ đã được học, từ đó bộc lộ tình cảm của mình. 2.2. Giải pháp 2.2.1. Tạo hứng thú học tập cho học sinh Để giờ dạy ca dao đạt được hiệu quả, trước hết người giáo viên phải tạo được hứng   thú học tập cho học sinh, cuốn hút các em vào giờ  học, để  từ  đó các em yêu thích môn  Văn hơn. Ca dao ­ dân ca cũng như tác phẩm văn học dân gian khác, nó là những sáng tác nghệ  thuật truyền miệng của nhân dân. Ca dao là những áng thơ ca trữ tình diễn tả đời sống,   tình cảm, tâm hồn của nhân dân. Ca dao là người bạn thân thuộc với mỗi người trong   suốt cuộc đời. Khi chào đời được nghe những lời hát ru à ơi của mẹ, của bà, để khi lớn   lên lại gửi gắm tình cảm của mình qua lời ca, các em cảm nhận được những tâm hồn  tình cảm của người dân Việt. Trong ca dao, những cảm xúc, những suy nghĩ và tình cảm   được biểu hiện đều gắn liền với những cảnh ngộ sống, đều do hoàn cảnh, những cảnh   ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 5
  6. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 ngộ đời sống đó tạo ra, gợi lên. Vì vậy khi giảng dạy phần này với từng bài ca dao cụ  thể, tôi đã cố gắng gợi ra đưa các em vào từng  hoàn cảnh, từng lời ca của mỗi bài. Qua mỗi bài tôi đã phát huy ưu thế của ca dao bằng cách tạo tâm thế cho giờ học qua   giọng đọc diễn cảm, có thể hát dân ca để mở rộng thêm vốn hiểu biết của học sinh. 2.2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi Đặc trưng trong phân môn Văn là đi từ văn đến ý, từ  phân tích đến giảng bình. Giáo  viên phải xác định được hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại. Như chúng ta  đã biết phần lời của những câu hát dân gian thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người,  thường đan xen ở các cách thể hiện: phú, tỉ  hoặc hứng. Nó sống được đến ngày nay là   nhờ dân ca. Nhưng khi đưa vào nhà trường đã được văn bản hoá và vì vậy nó cũng được  nghiên cứu như một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng trong quá trình dạy học nó cũng cần  được làm sống dậy môi trường dân gian  ở  dạng tinh, đơn giản, đủ  để  kích thích cảm  thụ. Vì ca dao thuộc thể loại trữ tình dân gian cho nên trong quá trình phân tích giáo viên   cần tăng cường câu hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tượng và các câu hỏi về chi tiết nghệ  thuật. Tạo điều kiện cho các em chóng thuộc và tiếp nhận những cách thể hiện độc đáo  của ca dao. Ca dao thường nghiêng về vẻ đẹp trang trọng trong đời thường con người.  Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật cần cố gắng huy động với một khối lượng đáng kể. Hệ thống câu hỏi cảm xúc là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người  đọc bị tác động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm  ở  mức độ  ấn tượng ban đầu.  Nó đi sâu vào cảm xúc thẩm mĩ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định được  cảm xúc của mình khi đọc xong tác phẩm, thể  hiện  ấn tượng ban đầu của mình trước  hình thức nghệ  thuật hay nội dung trực tiếp có tính chất vật chất của tác phẩm. Ngay  trong hệ thống nhỏ thứ nhất của loại câu hỏi cảm xúc đó cũng luôn xét đến sự chi phối  của thể loại và lứa tuổi để có những câu hỏi vừa sức và không bị "nhàm sáo", luôn luôn  bám sát văn bản. và rõ ràng, để  có được câu hỏi thoả  mãn yêu cầu đó người dạy cũng  như người đọc không thể hời hợt với tác phẩm ngay từ phút đầu. Ví dụ: ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 6
  7. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Hỏi: Kết cấu câu tám "Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu" có gì đáng chú ý? Trả  lời: Có kết cấu "Bao nhiêu … bấy nhiêu" là cách nói tăng cấp thường gặp trong  ca dao. Hỏi: Qua nhạc điệu, vần điệu của bài ca "Công cha như núi ngất trời" đã để lại cho  em cảm giác gì? Trả lời: Bài ca mang âm điệu ngọt ngào, du dương làm cho em cảm thấy lời nhắc nhở  nhẹ nhàng mà sâu lắng. Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca "Ở đâu năm cửa nàng ơi" có gì đặc biệt? Trả lời: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao duyên cổ truyền  Việt Nam. Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ  : Đứng bên ni đồng, đứng bên tê đồng, mênh mông bát  ngát, bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe cảm giác và ấn tượng gì? Trả  lời: Gợi cho chúng ta như  đang đứng trước một cánh đồng rộng, nhìn hút tầm  mắt, từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cánh đồng lúa đang thì con gái. Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc xúc cảm là chỗ dựa tốt để nắm  vững bài học … Vai trò của giáo viên trong việc giáo dục năng lực tưởng tượng của học   sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh   tạo nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy "tránh chủ quan và bịa đặt". Hệ thống câu hỏi tích hợp, rèn luyện kỹ năng sống Tình cảm gia đình là một tình cảm thân quen thể  hiện thường xuyên trong quan hệ  của học sinh với cha mẹ, ông bà, anh em, cô chú, … Các em thường xuyên sống trong  tình cảm đó, thấm thía hạnh phúc của tình cảm gia đình. Vì vậy liên hệ với các quan hệ  tốt hay chưa tốt của học sinh với gia đình là điều cần thiết. Cũng có thể  bằng cách để  cho học sinh kể  về  gia đình mình, tình cảm của mình đối với gia đình mình. Hoặc từ  thực tế  các lỗi của học sinh đối với gia đình như  không vâng lời cha mẹ, không kính  trọng ông bà, anh em không thương yêu nhau. Ví dụ, khi dạy bài  “Công cha như núi ngất trời ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 7
  8. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”. Hỏi: Câu nào trong bài ca dao nói lên lời khuyên tha thiết? Trả lời: Hai câu cuối là lời nhắn nhủ ân tình thiết tha. Hai tiếng “con  ơi” làm cho lời  ru trở nên ngọt ngào, thấm thía. Sử dụng từ Hán Việt “Cù lao chín chữ” để nói công lao   sinh thành, nuôi dưỡng, dạy bảo con cái vất vả khó nhọc nhiều bề. Do đó các em phải  “ghi lòng” tạc dạ công ơn to lớn của cha mẹ, sống có hiếu làm tròn bổn phận đạo làm   con … Hỏi: Trong cuộc sống gia đình có bao giờ  em lỡ  lời với cha mẹ, làm trái với lời  khuyên của bài ca dao không? Trả lời: Học sinh kể một sự việc đã phạm lỗi với cha mẹ. Qua câu chuyện của học  sinh kể, giáo viên tích hợp giáo dục kỹ năng sống, phải biết quan tâm giúp đỡ cha mẹ từ  những việc nhỏ như quét nhà, nấu cơm, rửa bát, … Chính những việc làm đó, góp phần   giữ trọn đạo làm con … Ví dụ khác, khi dạy bài  “Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”. Hỏi: So sánh tình cảm anh em với tay chân khẳng định được điều gì? Trả lời: Con người hoàn chỉnh không thể thiếu tay hoặc chân. Cũng như anh em ruột  thịt, phải biết yêu thương, gắn bó, đùm bọc, nhường nhịn nhau. Đó là tình cảm huyết  thống gia đình. Hỏi: Qua câu ca dao giúp em có cách cư xử đối với anh chị em của mình như thế nào? Trả lời: Học sinh tự nói lên suy nghĩ của mình như hòa thuận, đoàn kết, thương yêu,  chia sẻ, … ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 8
  9. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Biết liên hệ  với cuộc sống, chúng ta sẽ  giúp học sinh tiếp cận được tác phẩm dễ  dàng hơn, đồng thời các em sẽ được hiểu về những trạng thái tình cảm khác nhau. Trên  cơ  sở  đó học sinh được bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp có tính nhân văn cao như  lòng yêu thương con người, biết quan tâm người khác, lòng vị tha và tinh thần đoàn kết. Chương trình giảng dạy ca dao lớp 7 không chỉ giáo dục tình cảm gia đình mà còn chú  trọng giáo dục lòng yêu quê hương đất nước.  Ví dụ, khi dạy bài ca dao ­ Ở đâu năm cửa nàng ơi Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng? … ­ Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng. … Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con người thường gợi nhiều hơn tả,  hay nhắc đến tên núi, tên sông, tên vùng đất với những nét về cảnh trí, lịch sử, văn hóa  của từng địa danh. Đằng sau những lời đối đáp, lời mời, lời nhắn gửi là tình yêu chân  chất, tinh tế  và lòng tự  hào đối với con người và quê hương đất nước Việt Nam. Khi  dạy bài này, giáo viên nên sử dụng tranh ảnh và bản đồ để giúp học sinh thấy được vẻ  đẹp của các danh lam thắng cảnh đất nước. Từ  đó giáo dục thái độ  trân trọng giữ  gìn,   bảo tồn những di sản văn hóa của dân tộc đồng thời tích hợp giáo dục môi trường cho  học sinh. ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 9
  10. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Đền Sòng Cầu Thê Húc Ta xét thêm ví dụ: Khi dạy bài dân ca về quê hương đất nước, con người (tiết 10)  Đứng bên ni đồng, ngó  bên tê đồng mênh mông bát ngát  Đứng bên tê đồng ngó bên  ni đồng  bát ngát mênh mông. ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 10
  11. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Thân em như chẽn lúa đòng đòng Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai ....  Hai câu thơ đầu học sinh dễ dàng nhận vẻ đẹp rộng lớn bao la, các cánh đồng lúa, đó  là vẻ đẹp “Cò bay mỏi cánh sao không thấy bờ” nhưng câu lục bát cuối.       Thân em như chẽn lúa đòng đòng  Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Học sinh chưa hiểu được, vì  một lẽ đơn giản: Xã hội ta ngày nay có sự bình đẳng, tự  do hôn nhân, không còn cảnh ép duyên như xưa nữa, hơn nữa các em mới là học sinh lớp  7, tuổi còn nhỏ  làm sao hiểu được"Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai"  là nói về  tương lai­ tương lai cuộc đời, tình yêu và hôn nhân. Vì vậy khi giảng bài này tôi đã giới  thiệu cho học sinh thấy cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội cũ " Cha mẹ đặt đâu   con ngồi đấy" Nhiều cô gái đến ngày cưới mới biết mặt chồng. Chính vì thế  đứng  trước cảnh đồng lúa đang làm đòng, rộng mênh mông, đẹp vẻ  đẹp của  ấm no, cô gái  chạnh lòng nghĩ về số phận, tương lai của mình.        Thân em như chẽn lúa đòng đòng   và hướng về tương lai. Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai . Tương lai được diễn tả bằng cụm từ:  " Nắng hồng ban mai"  một tương lai đẹp, một  tình yêu đẹp, hạnh phúc lứa đôi đang chờ  đón. Đó là cái nhìn lạc quan của nhân dân ta  nói chung và người phụ nữ trong xã hội xưa nói riêng. Hỏi: Qua bài ca dao em hiểu gì về  số  phận người phụ  nữ  trong xã hội phong kiến?  Hãy liên hệ với phụ nữ trong xã hội ngày nay? Trả lời: Biết cảm thương sâu sắc cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.  Liên hệ với người phụ nữ ngày nay … 2.2.3. Luyện tập để giáo dục tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất nước  Luyện tập là một khâu quan trọng trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn.  ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 11
  12. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Khi tìm hiểu tác phẩm văn học thì phần luyện tập không có nghĩa là làm bài tập mà  đây là phần giúp học sinh nắm bắt tác phẩm sâu hơn cả  về  nội dung lẫn nghệ  thuật.   Thông qua phần luyện tập: Đọc, hát, ca dao dân ca, học sinh có thể  rung cảm trước   những hình  ảnh đẹp, những câu ca dao hay, từ  đó bày tỏ  được những ý kiến đánh giá  của mình về tác phẩm một cách đầy đủ, chính xác hơn. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy đôi khi giáo viên chúng ta hay bỏ  qua phần này vì cho  rằng  phần  này  không quan trọng hoặc lướt qua do thiếu thời   gian. Những quan niệm đó hết sức sai lầm cần phải phê phán. Bởi thực tế giảng dạy đã  cho ta thấy rất rõ không có bộ môn khoa học nào là không có phần luyện tập, thực hành.  Chỉ thông qua thực hành luyện tập, học  sinh mới nắm bắt bài học sâu sắc hơn. Với bộ  môn Ngữ văn, phần dạy ca dao dân ca thì khâu luyện tập lại càng quan trọng. Nếu chỉ  đơn thuần dạy cho các em hiểu nội dung và nghệ  thuật của bài ca  dao thì  dễ   rơi vào  tình   trạng   nhàm chán, bởi những bài ca dao có cùng chung chủ  điểm thường giống   nhau về nội dung và nghệ thuật có những nét khái quát tương tự như nhau. Nhưng cũng   vẫn là những bài ca dao đó, khi các em đựơc cất lên bằng những làn điệu dân ca các   miền khác nhau, thì nó trở  nên gần gũi, quen thuộc, dễ  nhớ, dễ  thuộc biết bao. Âm  thanh của lời ca kết hợp với nền nhạc dân gian đã giúp các em cảm thụ  tác phẩm dân   gian nhanh hơn, dễ dàng hơn trong học tập. Đồng thời thông qua đó giáo viên đã rèn cho   học sinh mạnh dạn hơn trong học tập, giao tiếp, giúp các em bộc lộ  những khả  năng   khác của bản thân như năng khiếu văn nghệ, năng khiếu thuyết  trình ... Thông qua luyện tập, học sinh rèn luyện được kỹ  năng cảm thụ  văn bản, kỹ  năng   luyện viết đoạn văn, bộc lộ tình cảm một cách chân thành, mộc mạc về gia đình và tình  yêu quê hương đất nước. Ví dụ, khi học xong phần ca dao về quê hương đất nước con người học sinh luyện   tập 3­5 phút theo yêu cầu viết một đoạn văn biểu cảm về quê hương mình. Các em phải  biết chọn nét đẹp về cảnh vật và con người để lại trong lòng ấn tượng sâu sắc. 2.2.4. Giáo dục tình cảm học sinh qua hoạt động ngoại khóa ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 12
  13. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Ngoại khoá là một trong những khâu thực hành khá quan trọng, bởi thông qua  những  buổi ngoại khoá, giáo viên giúp học sinh cảm   thụ    văn   học tốt hơn, đồng thời phát  hiện, bồi dưỡng năng khiếu, diễn xuất văn nghệ, giúp các em mạnh dạn hơn trong quá   trình học tập. Hơn thế  nữa thông qua buổi ngoại khoá học sinh thêm yêu hơn bộ  môn   Ngữ  văn ­ vốn là bộ  môn mà các em thường ngại học bởi cho rằng nó trừu tượng dài  dòng ... Thực tế những buổi ngoại khoá văn học do tổ  Văn đảm nhiệm trong nhiều năm qua   đã giúp tôi nhận thấy ngoại khoá văn học thực sự là một việc làm cần thiết. Những giọt  nước mắt đồng cảm với số phận của các nhân vật trong hoạt cảnh, những tiếng cười   sảng khoái trước những điệu nhảy vui nhộn và cả những tiếng vỗ tay theo nhịp múa rộn  ràng của các bạn trên sân trường, đã gieo vào lòng mỗi em  học sinh những  ấn tượng   khó phai. Không phải ngẫu nhiên mà sau những buổi ngoại khoá, không khí học tập của   các em học sinh trong trường lại nhộn nhịp hẳn lên.  Để  tiến hành một buổi ngoại khoá văn học đạt hiệu quả  tốt. Người giáo viên phải  tung ra những yêu cầu cụ  thể  cho học sinh. Bản thân giáo viên phải là người hướng   dẫn, đạo diễn giúp các em hát, múa theo đúng làn điệu dân ca các miền. Đặc biệt khâu   lựa chọn trang phục cũng hết sức quan trọng bởi nó giúp các em hiểu thêm về phong tục   tập quán của mỗi miền và cả giúp các em tự tin hơn, biểu diễn trên sân khấu góp phần  đáng kể  vào thành công của buổi ngoại khóa. Qua các hoạt động văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, qua cuộc thi “Em yêu tiếng  hát dân ca” là cơ hội rất tốt để giáo dục tình cảm học sinh qua điệu hò, tiếng hát lời ca,   đặc biệt thêm yêu điệu hò khoan Lệ  Thủy. Từ  đó các em càng thêm yêu gia đình, yêu   quê hương đất nước của mình. 2.2.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy ca dao Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả  giờ  dạy theo yêu cầu đổi mới phương   pháp dạy học. Với định huống không “dạy chay, dạy suông” làm cho người học phát  huy được tính tích cực trong học tập. Vì vậy việc giáo dục tình cảm cho học sinh qua   ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 13
  14. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 giảng dạy ca dao có liên quan gì đến đồ dùng trực quan? Ông cha ta có câu “Trăm nghe   không bằng mắt thấy” nghĩa là giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học nhằm minh họa cho   nội dung bài giảng như tranh ảnh, bản đồ, băng hình, đĩa hát, … Thông qua đồ dùng trực   quan học sinh tiếp thu được tri thức, thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với   thực tế  cuộc sống. Các em biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, tạo hứng thú, gây   xúc cảm, biết yêu thương, phân biệt phải trái … Ví dụ, khi dạy văn bản “Những câu hát về tình cảm gia đình” trong quá trình khai thác  tôi đưa các bức tranh vào bài giảng. Biết chăm sóc người thân khi đau ốm ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 14
  15. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Chị ngã em nâng Qua hình  ảnh giáo dục kỹ năng sống, biết thương yêu giúp đỡ  người khác, phát huy   truyền thống đạo lí của người Việt Nam “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,  “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hoặc cho các em xem băng hình câu chuyện “Vì sao hoa cúc có nhiều cánh nhỏ” của  một em bé với mong ước mẹ của mình nhanh khỏi bệnh và sống lâu. 2.2.6. Sưu tầm, sáng tác ca dao theo chủ đề tương tự Học văn, bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những kiến thức và kỹ  năng cơ  bản,  một trong những nội dung khá quan trọng là bồi dưỡng năng lực cảm thụ  văn học, có   những rung cảm thẩm mỹ. Góp phần khám phá “cái chất” còn ẩn dấu, tìm cái riêng, cái   độc đáo, sáng tạo của học sinh.  Để  nâng cao năng lực cảm thụ ca dao cho học sinh, trong quá trình giảng dạy tôi đã   lồng ghép các câu ca dao có nội dung tương tự để khắc sâu kiến thức. Ví dụ, khi dạy bài ca dao “Công cha như núi ngất trời” giáo viên nên yêu cầu học sinh   tìm những bài, những câu ca dao có nội dung tương tự, như: Công cha như núi Thái Sơn ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 15
  16. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con. Hoặc Ơn cha nặng lắm ai ơi! Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang. Trong phần hướng dẫn về nhà, tôi luôn yêu cầu học sinh sưu tầm vào sổ tay văn học  các câu ca dao có nội dung tương tự theo từng chủ đề khác nhau. Để hiểu rõ hơn về các  làn điệu dân ca của quê hương, tôi đã đưa hò khoan Lệ Thủy vào phần liên hệ thực tế.  Học sinh dễ cảm thụ hơn, từ đó phát hiện năng khiếu mới giới thiệu vào câu lạc bộ hò  khoan Lệ Thủy của nhà trường. Trong quá trình giảng dạy, tôi cũng đã hướng cho học sinh tập sáng tác ca dao theo  chủ  đề, tập làm quen cách làm thơ  lục bát và ôn luyện các thể  thơ  được học từ  lớp 6.   Giúp học sinh bộc lộ  tình cảm hết sức tự  nhiên, tinh tế  về  quê hương, gia đình. Học  sinh sẽ có “sản phẩm tinh thần đầu tay” nhớ mãi. Trên cơ sở đó bồi dưỡng những tình  cảm cao đẹp, đậm tính nhân văn về tình yêu thương, lòng nhân ái, tự hào về quê hương  đất nước và con người Việt Nam. Để kiểm nghiệm hiệu quả các giải pháp trên sau khi học phần ca dao về tình cảm gia  đình, tình yêu quê hương đất nước con người, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập  của học sinh. Các em làm bài khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng   đối chứng về kết quả học tập của các em:  a. Học sinh yêu thích môn học Yêu thích: 45% Bình thường:  49,7% Không thích: 5,3% b. Kết quả khảo sát chất lượng phần ca dao: Sĩ  Kết quả TT Lớp Giỏi Khá TB Yếu số SL % SL % SL % SL % 1 7A 38 07 18,4 16 42,1 11 28,9 04 10,5 2 7B 39 08 20,5 16 41,0 13 33,3 02 5,1 Tổng 77 15 19,5 32 41,6 24 31,2 06 7,8 Qua nhiều năm dạy môn Ngữ  văn lớp 7 tôi đã có thêm những kinh nghiệm mới để  hướng dẫn các em học sinh nắm được khái niệm, đặc điểm của ca dao ­ dân ca. Giáo   viên từng bước giúp các em có kĩ năng và chủ  động trong việc thưởng thức tác phẩm   văn chương thuộc thể  loại trữ  tình dân gian. Nhiều em đã thực sự  yêu thích môn Ngữ  ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 16
  17. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 văn, có em đã sưu tầm được khá nhiều bài ca dao theo chủ  đề  và chép vào sổ  tay văn   học. 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài Trong cuộc sống có vô vàn điều ta phải phám phá, tìm hiểu. Cũng như  trong ca dao  vốn từ  thật phong phú mà tế  nhị, sâu sắc. Hơn ai hết, người giáo viên đứng lớp phải  biết chắt lọc, tìm tòi, khám phá, phải trải qua một quá trình chọn, mài dũa “người thợ  kim hoàn”  ấy mới tìm được “những viên ngọc” sáng ngời. Từ  đó ta càng hiểu sâu sắc  của nhà thơ Maiacopxki:  Phải tốn phí ngàn câu quặng chữ Mới thu về một chữ mà thôi. ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 17
  18. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 “Một chữ” ấy đem soi vào phần ca dao, theo tôi người giáo viên thành công nhất chính   là bồi đắp được tình cảm nhân văn cao đẹp trong tâm hồn mỗi học sinh chúng ta. Đúng   như lời dạy của Bác Hồ “Người giáo viên không chỉ dạy chữ mà còn dạy học sinh cách   làm người.  Ca dao đã đánh thức trong tâm hồn các em những tình cảm chân thành, biết  ước mơ  cao đẹp, sống nhân hậu, có tình người, đặc biệt qua thực tế cuộc sống các biết vâng lời  ông bà, cha mẹ, thầy cô, chăm ngoan học giỏi, sống có trách nhiệm, biết quan tâm đến   người khác. Ca dao đã gieo vào lòng học sinh tình yêu quê hương đất nước, từ  những   điều giản dị  của cuộc sống xung quanh như  xóm làng, cây đa, giếng nước, mái đình.  Chính những bài ca dao này phần nào đã minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản   biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận và thực hành kiểu văn bản này để bộc lộ tình   cảm, cảm xúc của mình. Giảng dạy ca dao ­ dân ca là một hoạt động hội tụ  được nhiều kĩ năng và tri thức,   trong đó hạt nhân là kiến thức và kĩ năng xử lí những văn bản ca dao ­ dân ca (một thể  loại trữ tình dân gian) cụ thể với một kĩ năng tổ chức dạy học ­ kĩ năng sư phạm trước  một đối tượng là học sinh THCS. Tùy theo những bài ca dao ­ dân ca với đặc trưng thể  loại và đề tài của nó (bởi vì văn bản chỉ  tồn tại trong thể loại), mà người giáo viên tổ  chức cho học sinh đọc tác phẩm, chỉ ra phương pháp phát hiện, sưu tập, lựa chọn, phân  tích, sử  dụng sáng tạo như  tư  liệu nguồn để  có thể  khám phá ý nghĩa, giá trị  của tác  phẩm. Trên cơ  sở  đó mà tích hợp giá trị  của nhân cách. Sự  tích hợp này sẽ  vừa mang  bản sắc cá nhân, vừa có sắc thái cộng đồng ­ một điểm có thể  trở  nên rất mạnh, tuỳ  thuộc vào tài năng, đức độ của người giáo viên và môi trường sư phạm. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất Để  giảng dạy ca dao có hiệu quả, giáo viên phải thực sự  yêu nghề  bài giảng mới có   hồn, mới truyền tải hết cái hay cái đẹp của ca dao, của cuộc sống đến với học sinh. Khi  giảng dạy văn học dân gian cần xác định đúng đặc trưng thể  loại, ý nghĩa của lời ca.   Người dạy cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ  năng, xác định được trọng tâm bài giảng.   ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 18
  19. GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7 Tùy từng nội dung mà giáo viên vận dụng phương pháp một cách linh hoạt đồng thời   rèn cho các em kỹ  năng nghe, đọc, viết thành thạo; tích lũy vốn ca dao thường xuyên,  với nội dung phong phú, đa dạng. Cần chú trọng giáo dục tư tưởng tình cảm, hình thành   nhân cách của người học sinh trong thời đại mới. Tóm lại, với nhận thức của mình trong một thời gian ngắn, tôi đã nỗ  lực tìm tòi, suy  nghĩ vừa đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có lẽ, những quan điểm  dạy học dẫ nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu trong dạy học ca dao dân ca. Kính mong   hội đồng khoa học góp ý, giúp đỡ  để  đề  tài này trở  thành cẩm nang dạy học sâu rộng   đến mọi người, góp phần nâng cao chất lượng dạy học vừa thực hiện tốt mục tiêu đào  tạo con người “vừa hồng vừa chuyên”. Xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của HĐKH nhà trường          Hưng Thủy, ngày    tháng 01 năm 2014 CHỦ TỊCH Người viết      Phan Thị Dự  ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2