intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

80
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh An Giang trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh An Giang thời gian qua.; Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh An Giang giai đoạn tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ____________ PHẠM THÀNH NHƠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI __________ PHẠM THÀNH NHƠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. HỒ VIỆT HẠNH Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Small and Medium-sized Enterprises - SME) được coi là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế ở mỗi quốc gia, nó chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp (DN), đóng góp từ 40-50% tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product - GDP) và góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của quốc gia đó. Tại Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến cuối năm 2020 cả nước có trên 760.000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong đó khu vực DNNVV chiếm đến 98,1%, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng thu ngân sách nhà nước và tạo công ăn việc làm cho hơn 5 triệu lao động. Các DNNVV còn có đóng góp to lớn trong việc thu hút vốn, giải quyết vấn đề an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang khu vực công nghiệp, dịch vụ, đội ngũ doanh nhân cũng từ đó từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhận thấy được tầm quan trọng, đóng góp to lớn của các DNNVV trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như những đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nên chủ đề nghiên cứu về DNNVV, đặc biệt là quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, chính phủ và cả hệ thống chính trị. Mục đích cuối cùng là tạo ra được chính sách phù hợp để dễ dàng thực thi, đáp ứng được kỳ vọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi, kích khích khối DNNVV phát triển. An Giang là tỉnh có số lượng DNNVV rất lớn, chiếm gần 99% trên tổng số hơn 10.000 doanh nghiệp hiện tại của tỉnh. Về lợi thế so sánh, An Giang là tỉnh vừa có đồng bằng vừa có đồi núi, là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú được thừa hưởng để phát triển KT-XH. Bên cạnh những lợi thế về điều kiện tự nhiên, An Giang còn là một trong 4 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ của Chính phủ, là trung tâm kinh tế, thương mại kết nối 3 thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh, 1
  4. thành phố Cần Thơ và thành phố PhnomPenh (Campuchia); có tuyến biên giới giáp Vương quốc Campuchia dài gần 100km, có 2 cửa khẩu quốc tế là Tịnh Biên và Vĩnh Xương, cùng 2 cửa khẩu quốc gia Khánh Bình, Vĩnh Hội Đông và 2 cửa khẩu phụ Bắc Đai, Vĩnh Gia tạo dòng chảy liền mạch trong hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, mặc dù có số lượng DNNVV rất lớn cùng với rất nhiều điều kiện thuận lợi nhưng tình hình phát triển DNNVV của tỉnh trong thời gian qua là rất hạn chế. Theo báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình phát triển DNNVV trong giai đoạn 2016-2020 thì An Giang là một trong 5 địa phương có tốc độ tăng trưởng về số doanh nghiệp đang hoạt động thấp nhất so với cả nước (1,9%) và mật độ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân trên 1000 dân trong độ tuổi lao động chỉ đạt 4,1 so với mức bình quân 14,7 của cả nước. Nguyên nhân được các cấp, các ngành chỉ ra phần lớn là các chính sách hỗ trợ DNNVV của tỉnh hiện tại chưa đủ hấp dẫn đối với doanh nghiệp, và đặc biệt là công tác tổ chức thực thi chính sách vẫn còn có rất nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, DNNVV cũng thiếu thông tin tuyên truyền nên chưa có cơ hội tiếp cận để nhận được hỗ trợ từ các chính sách; tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia vào các chính sách hỗ trợ còn khiêm tốn; việc phối hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho DNNVV chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, thậm chí còn sai lệch so với mục tiêu chính sách đề ra. Với nhiệm vụ đặt ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 là đẩy nhanh tốc độ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; củng cố, phát triển DNNVV cả về số lượng lẫn chất lượng với quy mô hợp lý, công nghệ phù hợp và hiện đại, mô hình tổ chức quản lý sản xuất hiệu quả, cạnh tranh và phát triển bền vững, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế của tỉnh, của cả nước, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân thì những bất cập trong thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang nêu trên nếu không được giải quyết triệt để sẽ khó có thể đạt được mục tiêu tỉnh đề ra. 2
  5. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, đồng thời là người trực tiếp được phân công nhiệm vụ liên quan đến khối DNNVV tại đơn vị, tác giả quyết định chọn đề tài “Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến khối DNNVV, thời gian qua đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Lê Anh Dũng (2003), “Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thành phố Hồ Chí Minh”, luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đánh giá thực trạng phát triển hệ thống DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1993 - 2001; từ đó đề xuất định hướng và những giải pháp đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước đối với DNNVV trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Lê Minh Tâm (2003), “Quá trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2000: Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. Luận văn đã đề cập đến thực trạng phát triển các DNNVV ở khu vực ngoài quốc doanh trong giai đoạn từ năm 1986-2000 và từ đó đưa ra những phương hướng giải pháp phù hợp với thực tế hiện nay. Phạm Minh Tuấn (2006), “Hoàn thiện những chính sách chủ yếu để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đánh giá thực trạng tác động của những chính sách đến DNNVV; đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm phát triển DNNVV của Hà Nội đến năm 2010. Phạm Văn Hồng (2007), “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận án phân tích, đánh giá thực trạng DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế quốc 3
  6. tế; đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển DNNVV có hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyễn Văn Tiến (2009), “Giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đưa ra những kinh nghiệm hỗ trợ phát triển DNNVV ở một số địa phương trong nước và quốc tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài những công trình nghiên cứu trên, cũng có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trang thông tin điện tử, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ, các bài tham luận tại hội thảo, hội nghị và các ý kiến chuyên gia đề cập đến các DNNVV với nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, khi bàn về khối doanh nghiệp này, các công trình nghiên cứu vẫn còn bỏ ngỏ nội dung thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV, gần như chưa có công trình nghiên cứu trọn vẹn nào cho đề tài, đặc biệt chưa có đề tài nào nghiên cứu thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang. Vì vậy, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tiếp cận việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang một cách toàn diện là rất cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Tập trung vào việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV ở tỉnh An Giang. Trên cơ sở phân tích thực trạng, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, cùng với kinh nghiệm thực tiễn của một số địa phương cả nước về thực hiện chính sách, tác giả đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang giai đoạn tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Là cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thục hiện chính sách; phân tích thực trạng, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang trong thời gian qua; đề xuất giải pháp mang tính khả thi nhất, phù hợp nhất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang trong giai đoạn tới. 4
  7. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV. Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh An Giang. Về thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV trong giai đoạn 2016-2020; giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV trong 05 năm tới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Trên cơ sở tìm hiểu lý thuyết có liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả vận dụng cách tiếp cận đa ngành và liên ngành đối với lĩnh vực chính sách công để đưa ra các giải pháp, ý kiến riêng của mình. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ khi hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công, trên cơ sở có sự tham gia của các chủ thể thực hiện chính sách và đối tượng chịu tác động của chính sách. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng trong luận văn là phương pháp định tính, cụ thể: Thu thập số liệu thứ cấp: Bao gồm các số liệu, tài liệu, báo cáo của UBND tỉnh An Giang, các Sở, ban, ngành và UBND các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh; số liệu từ Tổng cục Thống kê; Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); các văn bản quy phạm pháp luật, sách, giáo trình, các công trình khoa học, tạp chí chuyên ngành,… liên quan đến công tác thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV. Các số liệu thứ cấp này có giá trị trong việc đưa ra những dẫn chứng rõ ràng, đảm bảo tính logic, thuyết phục cho luận văn cũng như đáp ứng tính thực tiễn. 5
  8. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên những số liệu thứ cấp đã thu thập, tác giả tiến hành phân tích và tổng hợp để hệ thống hóa những dữ liệu phục vụ mục đích nghiên cứu đặt ra nhằm đánh giá thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tại An Giang trong thời gian qua, qua đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV tỉnh An Giang trong giai đoạn tới. 6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV trên một số lĩnh vực được nhận định là có tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện thời gian qua. Từ đó hình thành tiến trình, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chính sách đã ban hành hoặc ban hành chính sách mới phù hợp với thực tiễn ở giai đoạn tới. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Đây có thể là những kiến nghị giúp các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương vận dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh An Giang. Đồng thời, kết quả nghiên cứu, những dữ liệu, nhận xét, đánh giá của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến khoa học về chính sách công trong một lĩnh vực cụ thể là chính sách hỗ trợ DNNVV. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài lời cam đoan, mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh An Giang thời gian qua. Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh An Giang giai đoạn tới. 6
  9. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.1. Khái niệm Cụm từ doanh nghiệp nhỏ ngày nay được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nói tới DNNVV, vô hình chung các quốc gia thường xem xét doanh nghiệp dựa trên quy mô của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc lựa chọn các tiêu chí đánh giá loại hình doanh nghiệp theo quy mô và định lượng các doanh nghiệp theo các tiêu chí cụ thể. Các quốc gia nhìn chung chưa có một khái niệm mang tính chuẩn mực cho việc xác định thế nào là DNNVV. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm về DNNVV giữa các quốc gia trên thế giới chủ yêu là việc lựa chọn các tiêu chí đánh giá quy mô doanh nghiệp và việc lượng hóa các tiêu chí đó thông qua các chi tiêu cụ thể. Trên thực tế hiện nay, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và tùy thuộc vào đặc điểm ngành, nghề kinh doanh, trình độ phát triển trong từng thời kỳ mà mỗi nước có thể sử dụng các tiêu chí cụ thể hoặc kết hợp các tiêu chí khác nhau như: tổng số lao động làm việc trong doanh nghiệp, tổng vốn hoặc giá trị tài sản, doanh thu. Do đó, khái niệm DNNVV là mang tính tương đối, thay đổi theo từng giai đoạn phát triển KT-XH của mỗi nước và phụ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH của mỗi quốc gia, vào đặc điểm phát triển của mỗi loại ngành, nghề. Tại Việt Nam, sự hình thành quan niệm và các cách xác định DNNVV cũng khác nhau qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Theo Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 06 năm 2009 của Chính phủ định nghĩa về DNNVV như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân 7
  10. đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”. Ngày 12 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 (Luật Hỗ trợ DNNVV). Theo đó, Luật quy định DNNVV là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội không quá 200 người, có tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng hoặc doanh thu năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. Đến ngày 11 tháng 3 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV (Nghị định số 39/2018/NĐ-CP) quy định rõ các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp siêu nhỏ. Như vậy, có thể thấy quan điếm và tiêu thức xác định cũng như việc đo lường tiêu thức xác định DNNVV ở các nước thường không giống nhau do điều kiện và trình độ phát triển của các nước là khác nhau, tuy nhiên việc xác định DNNVV ở các nước đều sử dụng những tiêu thức có định lượng phù hợp với điều kiện cụ thế của từng nước trong từng thời kỳ phát triển. Chính vì vậy, khái niệm về DNNVV thường được thay đổi và ít được dùng như một định nghĩa mang tính học thuật, có tính chất bắt buộc và tồn tại lâu dài. 1.1.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa Theo Điều 4 của Luật Hỗ trợ DNNVV quy định về tiêu chí xác định DNNVV như sau: “1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây: a) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; b) Tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. 8
  11. 2. Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác định theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ.” Tại Điều 6 của Nghị định số 39/2018/NĐ-CP cũng quy định về tiêu chí xác định DNNVV như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa. 1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. 2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng 9
  12. nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.”. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong những năm qua, nhờ có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển DNNVV của Nhà nước ban hành, nhất là từ sau khi Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời (ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2020, có hiệu lực từ tháng 01 tháng 01 năm 2021) để thay thế cho Luật Doanh nghiệp 2014 đã góp phần phát triển thêm về số lượng DNNVV. Phần lớn các doanh nghiệp được thành lập trong thời gian qua là các DNNVV với sự đa dạng về thành phần sở hữu, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI),... Các DNNVV này đã góp phần quan trọng trong việc phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy được nội lực vào xây dụng và phát triển kinh tế, xã hội; góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm, xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Vì vậy, vai trò của DNNVV ngày càng lớn đối với nền KT-XH được thể hiện trên các mặt sau: 1.1.3.1. Tạo công ăn việc làm cho người lao động Vai trò của các DNNVV không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế mà nó tạo ra, quan trọng hơn và có ý nghĩa hơn là tạo công ăn việc làm cho người dân. Sự xuất hiện ngày càng nhiều DNNVV ở các địa phương, các vùng nông thôn có thể tạo ra số lượng lớn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề lao động dôi dư, nhàn rỗi trong xã hội và ổn định kinh tế. Các cơ hội tăng thêm việc làm sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp. 10
  13. 1.1.3.2. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào những nhà sáng lập ra chúng. Đó là sức ép lớn buộc những người quản lý và sáng lập ra chúng phải có tính linh hoạt cao trong quản lý và điều hành, dám nghĩ, dám làm và chấp nhận sự mạo hiểm. Sự có mặt của đội ngũ những người quản lý này cùng với khả năng, trình độ, nhận thức của họ về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động lớn đến hoạt động của từng doanh nghiệp. Họ luôn là người đi đầu trong đổi mới, tìm kiếm phương thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Đối với một quốc gia thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự có mặt của đội ngũ này, và chính đội ngũ này sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động, linh hoạt phù hợp với thị trường. Ngoài các vai trò như đã nói trên, các DNNVV còn có vai trò trong việc ươm mầm các tài năng kinh doanh. Sự phát triển các DNNVV có tác dụng đào tạo, chọn lọc và thử thách đội ngũ doanh nhân, làm xuất hiện nhiều tài năng trong kinh doanh. Bằng sự tôn vinh những doanh nhân giỏi, kinh nghiệm quản lý của họ sẽ được nhân rộng và truyền bá trong xã hội dưới nhiều kênh thông tin khác nhau, qua đó sẽ tạo nhiều tài năng mới cho đất nước. 1.1.3.3. Thu hút vốn Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho lao động cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay khi lạm phát có xu hướng tăng thì các ngân hàng cũng sẽ tăng lãi suất để thu hút vốn. Nhưng không phải cứ tăng lãi suất thì sẽ tăng được lượng tiền huy động. Điều này còn phụ thuộc vào việc liệu mức tăng lãi suất có lớn hơn mức tăng lạm phát để đảm bảo cho người gửi tiền có được mức lãi suất thực dương hay không. Nếu lãi suất thực bị âm, người có tiền sẽ tìm các kênh đầu tư khác để bảo toàn vốn. 11
  14. Trong lúc lạm phát chưa ổn định, huy động vốn của ngân hàng chưa hấp dẫn, các cá nhân có tiền nhàn rỗi có nhu cầu thành lập các cơ sở sản xuất nhỏ là hợp lý, đây là yếu tố tích cực của việc huy động vốn trong nhân dân. Do vậy, hàng năm đã có rất nhiều DNNVV được thành lập. 1.1.3.4. Gia tăng giá trị xuất khẩu Với đà phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kết hợp với thị trường mở cửa đa phương hóa và đa dạng hóa, nhiều DNNVV đã mạnh dạn chuyển sang sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng, nhiều sản phẩm được các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất ủy thác qua các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phân công lao động giữa các vùng, địa phương. 1.1.3.5. Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ Từ đặc trưng về hoạt động sản xuất kinh doanh, các DNNVV đã có mặt ở hầu hết các vùng, địa phương; điều này đã giúp cho doanh nghiệp tận dụng và khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ. DNNVV đã tận dụng triệt để các nguồn lực xã hội, khai thác tốt các tiềm năng rất phong phú trong dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn liếng, bí quyết nghề nghiệp, ngành nghề truyền thống, v.v... để phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đó có thể chứng minh thông qua nguồn lực lao động. Các DNNVV đã tham gia góp phần vào công việc đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực. Một bộ phận lớn lao động trong nông nghiệp và số lao động bắt đầu tham gia vào thị trường việc làm đã được thu hút vào các DNNVV, dần thích ứng với nề nếp tác phong công nghiệp và một số ngành dịch vụ liên quan. Ngoài lao động, DNNVV còn sử dụng nguồn tài chính của dân cư trong vùng, nguồn nguyên liệu trong vùng để hoạt động sản xuất kinh doanh. 12
  15. 1.1.3.6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Ở các nước có nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp lớn thường tập trung ở các thành phố và các trung tâm công nghiệp, gây mất cân đối về trình độ phát triển kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong một quốc gia. Phát triển các DNNVV sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh của vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. Trước hết, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn thông qua phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, sự phát triển của các DNNVV cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Ngoài ra, việc phát triển các DNNVV còn có tác dụng duy trì và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống nhằm sản xuất các loại hàng hóa mang bản sắc văn hóa dân tộc. 1.1.3.7. Góp phần vào việc đô thị hoá Việc phát triển các DNNVV ở nông thôn không những góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch về đời sống giữa thành thị và nông thôn mà còn thúc đẩy đô thị hóa các vùng nông thôn. Để nông thôn thực sự phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trước hết phải phát triển mạnh DNNVV. Thực tế cho thấy loại hình kinh tế này có khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật tốt hơn và có tiềm lực kinh tế để sẵn sàng đầu tư khi cần thiết. Lợi thế của DNNVV ở nông thôn là với số vốn không lớn, không những đã góp phần tạo đầu ra cho nông nghiệp mà còn nâng cao giá trị của hàng hóa nông sản. Phát triển DNNVV góp phần làm hài hoà các mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa người làm nông nghiệp và người làm phi nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Đây cũng là giải pháp chủ yếu tạo ra thu nhập và việc làm cho những nông dân không còn đất trong quá trình đô thị hóa, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. 13
  16. 1.1.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Qua phân tích về vai trò và đóng góp hết sức to lớn của khối DNNVV mang lại cho nền kinh tế như đã nêu trên, tuy nhiên tại các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khối DNNVV thường gặp phải những vấn đề khó khăn, thách thức sau: Thứ nhất, thiếu vốn, thiếu nguồn lực nội sinh và ngoại sinh để thúc đẩy các ý tưởng kinh doanh lớn, hay tham gia các dự án đầu tư có quy mô lớn. Thứ hai, do quy mô nhỏ nên DNNVV thường thiếu sự ủng hộ của đông đảo công chúng. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là sự phụ thuộc về thương hiệu hàng hóa, thị trường, công nghệ, tài chính… đối với các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển. Thứ ba, do dễ khởi nghiệp, các DNNVV cũng có nguy cơ phải gánh chịu nhiều loại rủi ro trong kinh doanh, thậm chí phá sản. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, nếu DNNVV không thích ứng linh hoạt sẽ nhanh chóng bị bỏ xa về khoảng cách. Thứ tư, doanh nghiệp gặp khó khăn khi hoạt động trong môi trường không tạo điều kiện thuận lợi về hệ thống pháp lý. Thứ năm, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, thiếu nhân lực có trình độ cao, thiếu mặt bằng để phát triển sản xuất, kinh doanh, đại bộ phận chưa quan tâm đến xây dựng thương hiệu, khó liên kết để tạo thế mạnh chung. Các DNNVV khó có thể tự giải quyết những vấn đề trên mà cần có sự hỗ trợ thiết thực từ Nhà nước. Do đó, khối DNNVV đang là mục tiêu trọng tâm của các chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia nên việc khuyến khích, hỗ trợ cho DNNVV phát triển là việc làm quan trọng để thực hiện thành công chiến lược phát triển KT-XH, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. 14
  17. 1.2. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.2.1. Khái niệm Theo quan điểm phổ biến, chính sách là một chuỗi (tập hợp) những hành động có mục đích nhằm giải quyết một vấn đề (Anderson, 1994). Chính sách giúp các nhà quản lý xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định, giúp họ thấy được phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Từ đó, chính sách sẽ hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên vào việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Chính sách KT-XH (chính sách công) là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). Còn theo cách hiểu của Althaus, Bridgman & Davis (2007), chính sách công là một tuyên bố mang tính quyền lực về những dự định của chính phủ, dựa trên những giả thuyết về nguyên nhân và ảnh hưởng được thiết kế, cấu trúc dựa trên những mục tiêu. Nhìn chung lại, có thể đưa ra cách hiểu về chính sách KT-XH là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể KT-XH nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước. Như vậy, từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách KT-XH nói riêng, có thể rút ra khái niệm về chính sách hỗ trợ DNNVV đó là: “Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh nghiệp này, phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hôi của đất nước.”. 15
  18. 1.2.2. Mục tiêu chính sách Việc xây dựng khung khổ pháp lý hỗ trợ DNNVV nhằm mục tiêu hỗ trợ, tạo điều kiện và cải thiện môi trường kinh doanh một cách thông thoáng, thuận lợi cho khối DNNVV thành lập, hoạt động ổn định và phát triển. 1.2.3. Các tiêu chí đánh giá chính sách Các tiêu chí đánh giá chính sách có thể được xem xét trên những góc độ sau: Tính phù hợp: đánh giá sự phù hợp của chính sách hỗ trợ DNNVV đối với các điều kiện KT-XH của từng tỉnh, thành phố. Tính hiệu quả: các chính sách được ban hành có giải quyết được những khó khăn, tồn tại của khối DNNVV hiện nay. Tính công bằng: chính sách có công bằng với các doanh nghiệp nói chung và đảm bảo quyền lợi cho khối DNNVV nói riêng. Tính khả thi: việc ban hành chính sách có thể thực thi, áp dụng thuận tiện hay không. Tính hiệu lực: sau khi chính sách được ban hành, có các văn bản hướng dẫn kịp thời đi kèm không; khoảng cách giữa thời điểm phát sinh hiệu lực với thời điểm ban hành có hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp có những điều chỉnh cần thiết để thay đổi hành vi không. Tính công khai, minh bạch: chính sách được đưa ra có rõ ràng, thống nhất và có được công khai, minh bạch không. 1.2.4. Nội dung chủ yếu của chính sách Nhận thấy vai trò to lớn và tầm quan trọng của DNNVV, Luật Hỗ trợ DNNVV số 04/2017/QH14 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 12 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Để triển khai, Chính phủ và các bộ, ngành trung ương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đối với khu vực 16
  19. doanh nghiệp này. Theo đó, nội dung chính về chính sách hỗ trợ DNNVV được Quốc hội quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV như sau: 1.2.4.1. Tiếp cận tín dụng Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với DNNVV; khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay đối với DNNVV dựa trên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn độc lập để xếp hạng tín nhiệm DNNVV. DNNVV được cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng. DNNVV được cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV theo quy định tại Điều 9 của Luật Hỗ trợ DNNVV. 1.2.4.2. Thuế và kế toán DNNVV được áp dụng có thời hạn: mức thuế, suất thuế thu nhập doanh nghiệp nhỏ hơn mức thuế suất thông thường theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Áp dụng các thủ tục hành chính (TTHC) thuế và chế độ kế toán đơn giản cho các doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán. 1.2.4.3. Mặt bằng sản xuất kinh doanh Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bố trí quỹ đất để hình thành, phát triển cụm công nghiệp (CCN); khu chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung cho DNNVV. Việc hỗ trợ mặt bằng sản xuất theo nội dung nêu trên không áp dụng đối với DNNVV có vốn đầu tư nước ngoài, DNNVV có vốn nhà nước. 17
  20. 1.2.4.4. Mở rộng thị trường Doanh nghiệp, tổ chức đầu tư, kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm có ít nhất 80% số DNNVV tham gia cung ứng cho chuỗi sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ được hưởng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu. 1.2.4.5. Phát triển nguồn nhân lực DNNVV được miễn, giảm chi phí tham gia các khóa đào tạo có sử dụng ngân sách nhà nước về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, đào tạo nghề cho lao động làm việc trong các DNNVV; được tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo trực tuyến, chương trình đào tạo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác cho DNNVV; được hỗ trợ hoạt động đào tạo trực tiếp tại DNNVV trong lĩnh vực sản xuất, chế biến. 1.2.4.6. Chuyển đổi từ hộ kinh doanh DNNVV chuyển đổi từ HKD được hỗ trợ nếu trước khi thành lập doanh nghiệp, HKD đã đăng ký và hoạt động theo quy định của pháp luật; HKD có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. 1.2.4.7. Khởi nghiệp sáng tạo DNNVV khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ khi có thời gian hoạt động không quá 05 năm; chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2