Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG<br />
CỦA UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT<br />
Nguyễn Đăng Bảo*, Đỗ Đình Công* *<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Nghiên cứu các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng để giúp chẩn đoán sớm bệnh ung thư đường mật.<br />
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả. Hồi cứu tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ra viện là ung thư đường mật tại<br />
bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 01/ 2004 đến 12/2006.<br />
Kết quả: Có 148 bệnh nhân, gồm 87 nam và 61 nữ, tuổi trung bình là 61,7± 14,5. Bệnh cảnh lâm sàng chủ yếu là vàng<br />
da tăng dần, đau âm ỉ hạ sườn P, sụt cân và thiếu máu. Vùng rốn gan là vị trí thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ 64,2%.. Chẩn<br />
đoán khó khăn, dựa vào các đặc điểm lâm sàng kết hợp với siêu âm, CT, PTC, ERCP, CA 19-9. Ở ngưỡng 35U/l CA 19-9 có<br />
độ nhạy 79,2%. CA 19-9 tăng dần theo thời gian mắc bệnh. Chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy 74%. Chụp hình đường mật<br />
xuyên gan qua da và qua ERCP cho thấy rõ hình ảnh cây đường mật và vị trí tắc mật. Điều trị triệt đễ vẫn là thử thách lớn<br />
đối với các phẫu thuật viên vì bệnh lớn tuổi, đến viện ở giai đoạn trễ, chỉ áp dụng được các phương thức điều trị tạm bợ<br />
không mổ. Tiên lượng bệnh xấu, hầu hết bệnh tử vong trong vòng chưa đến một năm từ khi phát hiện bệnh.<br />
Kết luận: Ung thư đường mật là bệnh khó chẩn đoán và điều trị. Để chẩn đoán sớm và chính xác cần có chiến lược<br />
tầm soát thích hợp, nên làm xét nghiệm chỉ điểm khối u thường qui. Thực hiện nội soi ổ bụng trước mổ đối với những bệnh<br />
nhân còn chỉ định phẫu thuật nhằm có phương thức điều trị thích hợp.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE CLINICAL AND PARACLINICAL FEATURES OF CHOLANGIOCARCINOMA<br />
Nguyen Dang Bao, Do Dinh Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 131 -- 137<br />
Objectives: to study clinical and paraclinical factors to help early diagnose in the cholangiocarcinoma.<br />
Methods: A descpriptive retrospective study with all of patients diagnosed cholangiocarcinima, at the moment of<br />
dischargement, at Chôï raãy Hospital from 01/2004 to 12/2006.<br />
Results: there were 148 patients with 87 men and 61 women. The average age was 61.7 ± 14.5. The common clinical<br />
picture was gradual increased jaundice, dullness pain at right subcostal, loss weight and anemia. The most common position<br />
was the liver hilus, taked 64.2%. The diagnose was difficult to base clinical signs combined with abdominal ultrasonography,<br />
CT scanner, PTC, ERCP, CA 19-9. At the level of 35U/l of CA 19-9, its sensitivity was 79.2%. CA 19-9 is gradual increased<br />
according to time of disease. CT Scanner had the sensitivity 74%. PTR and ERCP displayed clearly the bile ducts and the<br />
location of obstruction. The radical treatment is still a chance to surgeons because these patients are old, at terminal illness and<br />
were treated only by the temporary nonoperative methods. The poor pronostic with the death in one month from the moment<br />
of discover disease.<br />
Conclusion: cholangiocarcinoma is difficult to diagnosis and treat. To early and exactly diagnose should have<br />
approriated screening plan, do classic tumor markers. Endoscopy laparostomy should be done for the patients having<br />
operative indication to gagne a convenable treatment plan.<br />
số công trình nghiên cứu ở Việt nam, ung thư<br />
ĐẶT VẤNĐỀ<br />
đường mật nói chung chiếm khoảng 6% trong<br />
Ung thư đường mật có chiều hướng tăng<br />
tổng số các bệnh ngoại khoa gan mật(4).<br />
dần trong ba thập kỷ qua(1,5,6,8,11,13,14,15,20). Theo một<br />
* ĐH Y Dược Tp. HCM<br />
** BV Đa khoa tỉnh Đăklăk<br />
<br />
Ngoại Tổng quát<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Chẩn đoán ung thư đường mật gặp nhiều<br />
khó khăn do các triệu chứng lâm sàng nghèo<br />
nàn, không đặc hiệu. Bệnh nhân đến bệnh viện<br />
thường ở giai đoạn đã muộn. Khi chẩn đoán<br />
được ung thư đường mật, hơn 2/3 trường hợp<br />
không còn chỉ định phẫu thuật(24).<br />
Tiên lượng bệnh rất xấu, phần lớn bệnh tử<br />
vong từ 6 - 12 tháng kể từ khi phát hiện<br />
bệnh(1,6,7,9,12,13,25,26).<br />
Qua nghiên cứu này chúng tôi hy vọng góp<br />
phần nào việc chẩn đoán sớm và chính xác bệnh<br />
ung thư đường mật, để từ đó có những phương<br />
thức điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNGNGHIÊNCỨU<br />
Bao gồm tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ra<br />
viện là ung thư đường mật tại Bệnh viện Chợ<br />
Rẫy trong thời gian từ 01/2004 – 12/2006. Không<br />
đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân: ung thư<br />
túi mật và ung thư bóng Vater.<br />
Dữ liệu thu thập được xử lý theo các thuật<br />
toán thống kê thông dụng như Chi bình phương,<br />
T test và hệ số tương quan r (độ tin cậy 95%) với<br />
chương trình SPSS 11.5.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Trong thời gian 3 năm từ tháng 1 năm 2004<br />
đến tháng 12 năm 2006, bệnh viện Chợ Rẫy<br />
thành phố Hồ Chí Minh đã điều trị 148 trường<br />
hợp ung thư đường mật.<br />
<br />
Đặc điểm về tuổi và giới<br />
Tuổi: Nhỏ nhất là 21 và lớn nhất là 90. Tuổi<br />
mắc bệnh trung bình là 61,7± 14,5.<br />
Tỉ lệ ung thư đường mật tăng dần theo<br />
tuổi, nhóm tuổi trên 60 có tỉ lệ cao hơn có ý<br />
nghĩa (p=0,001).<br />
Giới: Tỉ lệ nam/ nữ là 1,4.<br />
<br />
Đặc điểm lâm sàng<br />
Đa phần bệnh nhân đến bệnh viện sau khi có<br />
triệu chứng từ 1-2 tháng chiếm tỉ lệ 45,9%.<br />
Vàng da tăng dần là triệu chứng nổi bật, gặp<br />
ở hầu hết bệnh nhân (81,1%). Đau bụng, sụt cân,<br />
chán ăn, sốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 71,6%, 54,7%,<br />
43,9%, 17,6%.<br />
<br />
Ngoại<br />
Tổng quát<br />
2<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Đặc điểm cận lâm sàng<br />
Xét nghiệm sinh hoá<br />
Tăng nồng độ bilirubine toàn phần chiếm<br />
93,9%. Đặc biệt nồng độ >10 mg% chiếm đến 70,3%.<br />
Đây là một trong những yếu tố tiên lượng nặng.<br />
Tăng SGOT chiếm tỉ lệ 85,1%.<br />
Tăng SGPT chiếm tỉ lệ 65,5%.<br />
Xét nghiệm chỉ điểm khối u<br />
Nồng độ CA 19-9 nhỏ nhất là 0, cao nhất là<br />
83.840, trung bình là 15337,25 ± 14548,773.<br />
Nồng độ CEA nhỏ nhất là 0, cao nhất là 202,<br />
trung bình là 8,35± 24,4. Độ nhạy của CA 19-9 ở<br />
ngưỡng 35U/l là 79,2%. Độ nhạy của CEA ở<br />
ngưỡng 5ng/l là 26,4%.<br />
Nồng độ trung bình của CA 19-9 và CEA tăng<br />
dần theo thời gian mắc bệnh p=0,001 và p=0,036.<br />
Nồng độ trung bình của CA 19-9 và thời gian mắc bệnh<br />
< 1 tháng<br />
<br />
N<br />
22<br />
<br />
CA 19-9<br />
1082,05<br />
<br />
CEA<br />
3,91<br />
<br />
1-2 tháng<br />
<br />
31<br />
<br />
1446,84<br />
<br />
3,97<br />
<br />
> 2 tháng<br />
<br />
19<br />
<br />
16611,84<br />
<br />
20,63<br />
<br />
Chẩn đoán hình ảnh<br />
Độ nhạy của siêu âm là 35,6% và độ nhạy<br />
của CT là 74%.<br />
Cell block<br />
60 trường hợp được làm cell block, và chỉ<br />
có 8 trường hợp phát hiện có tế bào ung thư<br />
trong dịch mật.<br />
Giải phẫu bệnh<br />
Sinh thiết thực hiện được 10/148 trường hợp<br />
và kết quả đều là ung thư biểu mô tuyến.<br />
Chẩn đoán vị trí u<br />
Vị trí<br />
Trong gan<br />
Rốn gan<br />
OMC<br />
Lan toả<br />
TỔNG<br />
<br />
Tần suất<br />
8<br />
95<br />
41<br />
4<br />
148<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
5,4%<br />
64,2%<br />
27,7%<br />
2,7%<br />
100%<br />
<br />
Phương pháp điều trị<br />
Điều trị<br />
PTBD<br />
<br />
Tần suất<br />
60<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
40,5%<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Đặt stent qua ERCP<br />
Phẫu thuật<br />
Điều trị nâng đỡ<br />
TỔNG<br />
<br />
46<br />
14<br />
28<br />
148<br />
<br />
31,1%<br />
9,5%<br />
18,9%<br />
100%<br />
<br />
Phẫu thuật được thực hiện chỉ 14 trường<br />
hợp, trong đó 10 trường hợp chẩn đoán trước<br />
mổ là sỏi đường mật, trong mổ phát hiện u<br />
đường mật. 10 bệnh nhân này được xử trí nong<br />
và đặt feeding tube qua chỗ hẹp hoặc đặt Kehr<br />
vĩnh viễn.<br />
Trong 4 trường hợp còn lại, một bệnh nhân<br />
được mổ trong tình trạng nhiễm trùng nhiễm<br />
độc nặng và cách xử trí là bơm rửa đường mật<br />
và dẫn lưu Kehr. Hai trường hợp được nối túi<br />
mật hỗng tràng và nối vị tràng. Trường hợp<br />
còn lại được cắt gan hạ phân thuỳ II và nối ống<br />
gan hạ phân thuỳ II – hỗng tràng Roux- en Y.<br />
Bệnh nhân này sau mổ không thoát mê, người<br />
nhà xin về.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Theo Alexander, thời gian từ khi khởi phát<br />
bệnh đến khi vào viện từ 1-120 tháng(3).<br />
Nhiều tác giả nhận xét thời gian mắc bệnh<br />
trước khi nhập viện là một yếu tố tiên lượng<br />
quan trọng để chọn lựa phương thức điều trị.<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy<br />
nồng độ trung bình của CA 19-9 và CEA tăng<br />
có ý nghĩa theo thời gian mắc bệnh p=0,001 và<br />
p =0,036.<br />
<br />
Các dấu hiệu lâm sàng<br />
Vàng da<br />
Chúng tôi gặp hầu hết là vàng da tăng dần<br />
và ngày càng nặng, đặc biệt vàng da có mối liên<br />
quan với triệu chứng sốt và sụt cân cũng như<br />
thiếu máu.<br />
<br />
Qua liên lạc bằng điện thoại với 68/148 thân<br />
nhân bệnh nhân, có 58/68 bệnh nhân tử vong từ<br />
1- 8 tháng sau khi ra viện. 10 bệnh nhân còn<br />
sống chủ yếu xuất viện vào cuối năm 2006.<br />
<br />
Đau bụng, sụt cân và chán ăn<br />
Đau bụng, sụt cân và chán ăn cũng là những<br />
triệu chứng thường gặp của ung thư đường mật<br />
chiếm tỉ lệ theo thứ tự là 71,6%, 54,7% và 43,9%.<br />
Đau bụng trong ung thư đường mật thường<br />
là đau âm ỉ vùng hạ sườn phải, vùng thượng vị<br />
hay ở cả hai vị trí, ít khi đau nhiều như trong<br />
bệnh sỏi mật.<br />
<br />
BÀNLUẬN<br />
<br />
Sốt<br />
<br />
Tuổi và giới<br />
<br />
Gặp 17,6% trường hợp, thường là sốt nhẹ, do<br />
tình trạng nhiễm trùng đường mật.<br />
<br />
Thời gian sống sau khi xuất viện<br />
<br />
Theo các nghiên cứu nước ngoài, ung thư<br />
đường mật có tuổi trung bình từ 50-70, và hiếm<br />
khi xảy ra ở tuổi dưới 40(8,10,15,16,18,21).<br />
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tuổi<br />
trung bình là 61,67± 14,5, tuổi trẻ nhất là 21 và<br />
cao nhất là 90. Nhóm tuổi trên 60 chiếm đến<br />
57,5% trường hợp. Đặc biệt nhóm tuổi trên 70<br />
chiếm tới 31,1%.<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ<br />
nam/nữ là 1,4.<br />
<br />
Thời gian mắc bệnh<br />
Phần lớn bệnh nhân của chúng tôi đến khám<br />
bệnh sau khi khởi phát triệu chứng đầu tiên<br />
trong vòng 1-2 tháng, chiếm tỉ lệ 50%. Đặc biệt<br />
có 18 bệnh nhân đến khám khi đã có biểu hiện<br />
báng bụng, nghĩa là đã quá muộn.<br />
<br />
Ngoại Tổng quát<br />
<br />
Có mối liên quan giữa vàng da với triệu<br />
chứng sụt cân và sốt (p=0,008 và p= 0,005). Như<br />
vậy đặc tính của bệnh ung thư đường mật là<br />
vàng da kèm gầy sút nhưng không sốt trừ<br />
những trường hợp có nhiễm trùng đường mật<br />
kèm theo.<br />
<br />
Triệu chứng thực thể<br />
Triệu chứng thực thể trong ung thư đường<br />
mật là rất nghèo nàn, không đặc hiệu và thường<br />
xuất hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Túi mật<br />
to chiếm 10,8%, gan to chiếm 15,5%. Sờ được u<br />
chiếm 6,8%. Báng bụng chiếm 12,2%.<br />
<br />
Các dấu hiệu cận lâm sàng<br />
Các xét nghiệm sinh hoá<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Tăng Bilirubin toàn phần chiếm 94,6%.<br />
SGOT tăng chiếm 85,1%. SGPT tăng chiếm<br />
65,5%. 70,3% bệnh nhân có nồng độ bilirubine<br />
toàn phần >10mg%.<br />
<br />
cao hơn nhiều so với các tác giả khác, đây là yếu<br />
tố tiên lượng xấu(22).<br />
<br />
Nồng độ của bilirubin toàn phần cũng là một<br />
yếu tố tiên lượng trong ung thư đường mật.<br />
Bệnh nhân có nồng độ bilirubine toàn phần<br />
>10mg% thì tiên lượng rất xấu(8,18).<br />
<br />
Anderson và cộng sự cho rằng CEA đơn độc<br />
không đặc hiệu trong ung thư đường mật.<br />
Nhưng khi phối hợp cả hai CEA và CA 19-9 thì<br />
độ nhạy và độ đặc hiệu sẽ gia tăng. Với CA 19-9<br />
ở ngưỡng >180 U/l và CEA ở ngưỡng > 5,2 ng/ml<br />
thì độ nhạy và độ đặc hiệu là 100%(8).<br />
<br />
Xét nghiệm chỉ điểm khối u<br />
CA19-9 và CEA có độ nhạy lần lượt là 79,2%<br />
và 26,4% ở ngưỡng 35U/l và 5ng/l.<br />
Như vậy trong ung thư đường mật thì độ<br />
nhạy của CA 19-9 cao hơn rất nhiều so với CEA.<br />
Trong nghiên cứu của Xing Lei Qin cho thấy<br />
độ nhạy của CA 19-9 và CEA gần tương đương<br />
nhau, lần lượt là 77,14% và 68,57%. Tác giả cho<br />
biết nồng độ của CA 19-9 và CEA tăng cao có ý<br />
nghĩa khi so sánh với nhóm các bệnh mật lành<br />
tính và nhóm người khoẻ mạnh (p